Thứ Hai, 15 tháng 2, 2010

Đầu năm hành hương về đất Phật chùa Hương



Đầu năm hành hương về đất Phật chùa Hương
14/02/2010 16:45

Khi đất trời bước sang Xuân, cùng với các nhà du lịch, chúng tôi hành hương về đất Phật chùa Hương (huyện Mỹ Đức, Hà Nội) cầu mong sự an lành, may mắn trong năm mới.

Chuyến hành hương này cũng là dịp để các nhà du lịch chiêm nghiệm thực tế, quảng bá cho loại hình du lịch tâm linh, du lịch lễ hội đang được ưa chuộng nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội và Năm Du lịch quốc gia 2010.


Suối Yến.

Như vậy, chùa Hương là điểm đến đầu tiên, điểm đón khách du lịch trong nước và quốc tế sớm nhất trong năm 2010 đầy ý nghĩa này.

Chọn thời điểm về đất Phật trước mùa lễ hội, đó cũng là cơ may khi chúng tôi được tận hưởng sự thư thái, được vãn cảnh chùa chiền, núi non và không phải chứng kiến cảnh tắc đường, chen lấn như các mùa hội trước.

Dòng suối Yến mênh mang nước, hiền hòa dưới sắc trời sắp sang Xuân và giữa muôn trùng núi non, cây cỏ. Cảnh sắc dường như giữ được vẻ hoang sơ vốn có, tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên.

Trong những con đò nằm san sát bến Yến, thấp thoáng những con đò xanh màu nước sơn mới, có lắp ghế ngồi cho khách.

Theo ông Nguyễn Chí Thanh, Trưởng ban quản lý Khu di tích thắng cảnh Hương Sơn, đó là những chiếc đò chất lượng cao được đưa vào phục vụ khách mùa lễ hội này nhằm hạn chế sự quá tải như những mùa lễ hội trước.

Trên những triền núi, những thửa ruộng hai bên, sương sớm còn bảng lảng như một lớp mây mờ khiến đất Phật càng thêm huyền ảo, linh thiêng. Sau khi đi qua đền Trình, thuyền đưa chúng tôi đến bến Trò để lên vãn cảnh, khấn Phật chùa Thiên Trù.

Đây là ngôi chùa chính trong quần thể di tích chùa Hương, tọa lạc trên khu đất thuộc thung Mang, được khởi dựng từ thời vua Lê Thánh Tông.

Chùa Thiên Trù uy nghiêm, trầm mặc với hệ thống các di tích Tam bảo Thiên Trù, Long đao gác chuông, Nam Thiên môn Thiên Trù, Nhà bia Dốc Trò, Tổ đường, Viên Công bảo tháp uy... đã ngả màu rêu phong.

Đại đức Thích Minh Hiền, Trụ trì chùa Hương cho biết: “Trong dịp lễ hội năm nay, nhiều hoạt động Phật giáo sẽ được tổ chức tại chùa Hương như khai mạc phòng triển lãm mỹ thuật Phật giáo và Bảo tàng Phật giáo, các hoạt động văn hóa, các hoạt động kỷ niệm 1000 năm Phật giáo Thăng Long… để các phật tử, bà con thập phương hiểu về chùa Hương và cảm thấy đi hội là hoạt động không thể thiếu trong tâm thức mỗi người”.

Ngồi trên hệ thống cáp treo để vào chùa Giải Oan và động Hương tích, du khách có thể thưởng ngoạn toàn cảnh núi rừng Hương Sơn hùng vĩ, thơ mộng, thấp thoáng những cửa động, mái chùa cổ kính và dòng người trảy hội.

Nhưng trẩy hội chùa Hương với tâm niệm thành tâm với cửa Phật, thì việc phải vất vả chống gậy gắng sức leo trên những bậc đá, mồ hôi toát ra nhưng bụng vẫn vui, miệng khấn “Nam mô” mới đích thực là trảy hội về đất Phật, do đó nhiều Phật tử, du khách lựa chọn đường bộ hơn là ngồi cáp treo.

Tới động Hương Tích, du khách có thể ngắm cảnh hùng vĩ của một Nam Thiên đệ nhất động, có thể cầu khấn Phật ban phước cho mình một cách thư thái. Đây là nơi Bồ Tát Quán Thế Âm tu hành chính quả và cũng là điểm tham quan du lịch chính của Khu di tích thắng cảnh Hương Sơn.

Gặp chị Nguyễn Trúc Hà, định cư tại Tiệp Khắc, đi lễ chùa Hương nhân dịp về nước ăn Tết, chị cho chúng tôi biết: “Sau 7 năm xa quê, lần về nước này tôi lại đi chùa Hương và đây là lần thứ 6 tôi đến nơi này. Tôi thẩy chùa Hương là một thắng cảnh đẹp. Lần này tôi cảm nhận công tác quản lý ở chùa Hương có nhiều thay đổi, sạch sẽ hơn, đi lại thuận lợi hơn.”

Đến đất Phật, du khách có thể tham quan nhiều đền chùa, chùa động khác, có thể kéo dài 2-3 ngày. Ông Nguyễn Dấn, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch Hà Nội cho biết, khi trảy hội chùa Hương, du khách có thể tham gia vào 3 tuyến du lịch để khám phá văn hóa, lịch sử, cảnh quan đất Phật.

Tuyến thứ nhất tham quan khu Thiên Hương gồm 8 điểm đến là đền Trình-Ngũ Nhạc, chùa Thiên Trù, động Tiên Sơn, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng, động chùa Hương Tích, động Hinh Bồng và động Đại Binh. Tuyến thứ hai tham quan khu Thanh Hương và Long Vân gồm chùa động Thanh Sơn-Hương Đài, chùa Long Vân, hang Thánh Hóa, động chùa Cây Khế và hang động Người Xưa.

Tuyến thứ ba là tham quan khu chùa Bảo Đài và động chùa Tuyết Sơn gồm 4 di tích, danh thắng: chùa Bảo Đài, động chùa Long Vân (chùa Tuyết), chùa Ngư Trì (chùa Cá) và đền Trình Phú Yên.

Là một khu du lịch tâm linh, đặc biệt nơi này diễn ra một lễ hội lớn, từ đầu tháng Giêng đến hết tháng Ba âm lịch, hàng năm chùa Hương thu hút trên 1,26 triệu lượt khách du lịch tới tham quan, khấn Phật trong đó trên 26.000 lượt khách quốc tế.

Chùa Hương cũng là điểm du lịch chính trong các tour du lịch lễ hội đầu năm được các công ty lữ hành chào bán cho khách trong nước cũng như quốc tế.

Không chỉ tập trung ở thị trường các tỉnh miền Bắc, những năm gần đây du khách các tỉnh miền Nam cũng như thị trường các nước Á, Âu, Mỹ cũng tìm đễn chùa Hương lễ Phật, tham quan.

Anh Madthigs, khách du lịch Đức nhận xét: “Đây là lần đầu tiên tôi đến chùa Hương và tôi thấy nơi này rất đẹp, chụp ảnh rất thích. Tôi cũng có hai tuần ở Việt Nam nên sẽ đến nhiều điểm du lịch của đất nước các bạn.”

Mặc dù những năm gần đây, lễ hội chùa Hương được tổ chức với quy mô lớn hơn, chuyên nghiệp hơn, đưa nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ vào phục vụ làm tăng tính phong phú của lễ hội, nhưng như lời ông Ứng Trọng Tú, Chủ tịch Câu lạc bộ Lữ hành Hà Nội, mặc dù sức hấp dẫn của điểm du lịch tâm linh chùa Hương với khách rất cao nhưng sự phối hợp giữa Ban tổ chức lễ hội với nhà chùa chưa chặt chẽ trong công tác dịch vụ.

Bởi vậy khách du lịch nội địa hành hương về chùa Hương để lễ Phật và tìm hiểu về lịch sử, văn hóa chưa nhiều do chưa có điểm nhấn để du khách có cái nhìn đích thực về văn hóa tâm linh; điều này đặc biệt xảy ra đối với khách nước ngoài./.

Theo Đinh Thị Thuận (Vietnam

Nô nức xin chữ đầu Xuân



Nô nức xin chữ đầu Xuân
15/02/2010 12:12

(HNMO)- Sáng nay 15/2 - mùng 2 Tết, Hội Xuân tại khu di tích Văn Miếu –Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã khai mạc. Ngày đầu Xuân đến Văn Miếu –Quốc Tử Giám để thắp hương cầu cho gia đình bình an, xin chữ và sờ đầu rùa các văn bia tiến sỹ để mong con cháu học giỏi, đỗ đạt đã trở thành một nét văn hóa của người Hà Nội. Vì vậy, ngay từ sáng sớm, khu Văn Miếu đã đông vui nhộn nhịp bởi đông đảo người dân Thủ đô và du khách nước ngoài đã đến tham quan và thắp hương cầu may.

Một số hình ảnh lễ hội Xuân tại Văn Miếu -Quốc Tử Giám sáng nay:


Nô nức đi dến Văn Miếu - Quốc Tử Giám ngày đầu Xuân




Lễ dâng hương khai mạc Lễ hội Xuân tại Quốc Tử Giám






Xếp hàng để xin chữ thư pháp về treo Tết








Phơi chữ cho khô mực Tàu


Trò chơi dân gian cờ người thu hút sự chú ý của khách tham quan




Khu vực sân khấu biểu diễn rối nước cũng rất đông...khán giả nhí


Khách quốc tế rất thích thú trong ngày hội Xuân






Ai cũng muốn sờ đầu rùa văn bia tiến sỹ và cầu mong con cái học giỏi




Các ông đồ ngồi cho chữ bên ngoài Văn Miếu cũng đông khách không kém


Tuyết Minh


âng nén hương thơm lên Đức vua Lý Thái Tổ trong đêm giao thừa

Dâng nén hương thơm lên Đức vua Lý Thái Tổ trong đêm giao thừa
14/02/2010 02:29

(HNMO) – Trong những thời khắc đầy ý nghĩa của đêm giao thừa Tết Canh Dần (tức tối ngày 13/2), Lễ dâng hương tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ, người đã có công khai sáng kinh đô Thăng Long - Hà Nội, đã được tổ chức long trọng tại Thành phố Hà Nội.

Tham dự lễ dâng hương có Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng; Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội; Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Trần Chiến Thắng; Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị; Chủ tịch HĐND Thành phố Hà Nội Ngô Thị Doãn Thanh; Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân Thủ đô.

Lễ dâng hương là hoạt động nằm trong chương trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, thể hiện tình cảm, đạo lý uống nước nhớ nguồn, trân trọng và tôn vinh giá trị truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc.

Lễ dâng hương được tổ chức quy mô, theo nghi lễ truyền thống. Sau hồi trống khai lễ, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng cùng các đại biểu có mặt đã dâng nén hương thơm, tưởng nhớ công ơn Đức vua Lý Thái Tổ cùng các vị tiên hiền, tiên liệt, các liệt tổ, liệt tông, Anh hùng liệt sỹ, đã dày công xây dựng và bảo vệ non sông đất nước, Thủ đô Thăng Long-Hà Nội, cho con cháu ngày nay được sống trong hòa bình, độc lập, tự do.

Chủ tịch Quốc hội cùng các đại biểu, đại diện các tầng lớp nhân dân tham dự buổi lễ đã cẩn cáo trước anh linh Đức vua Lý Thái Tổ, cùng các vị liệt tổ, liệt tông về những thành tựu to lớn của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đổi mới, hội nhập và phát triển, ngày càng khẳng định vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

Ngoài Thành phố Hà Nội, lễ dâng hương Vua Lý Thái Tổ cũng được tổ chức cùng lúc ở Bắc Ninh (quê hương Vua Lý Thái Tổ) và Hoa Lư, Ninh Bình, cố đô của triều Lý trước khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra Thăng Long.

Lễ dâng hương khép lại bằng chương trình biểu diễn nghệ thuật dân tộc đặc sắc mừng Đảng, mừng Xuân mới Canh Dần 2010, mừng Thăng Long-Hà Nội tròn 1000 năm tuổi.

Sau đây là một số hình ảnh về buổi lễ trang trọng và xúc động:

Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng đánh trống khai lễ dâng hương - Ảnh: V.Thành

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng đại diện các tầng lớp nhân dân thành kính dâng nén hương thơm lên Đức vua Lý Thái Tổ - Ảnh: V.Thành

Chủ tịch QH Nguyễn Phú Trọng dâng hương - Ảnh: V.Thành


Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng dâng hương - Ảnh: V.Thành

Ca múa nhạc đón chào xuân mới Canh Dần - Ảnh: V.Thành

H.V

EmailPrint Võ Nguyên Giáp - Thiên tài quân sự



Võ Nguyên Giáp - Thiên tài quân sự
14/02/2010 18:45

Năm 1992, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có hai vị tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đặc biệt, trong số những người được vinh danh, duy nhất Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn sống. Nhân dịp Đại tướng bước sang tuổi 100, xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của tác giả Hồ Ngọc Sơn về thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp.

Để được tôn vinh thiên tài quân sự qua mọi thời đại của nhân loại thật không dễ. Thế nhưng, với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ nhận được sự đồng thuận rất cao của giới quân sự, kể cả với những người bình chọn “khó tính” nhất, ông còn nhận được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách, học giả, nhà sử học, nhà báo, nhà văn và đông đảo nhân dân thế giới.

Dưới ánh sáng đường lối kháng chiến của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đằng sau những thắng lợi mang tính thời đại của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Võ Nguyên Giáp là một động lực. Những chiến tích vĩ đại mà ông đã góp phần cống hiến xuất sắc, ít người sánh kịp, đã nâng ông lên tầm một vị tướng huyền thoại, để lại một dấu son rực rỡ trong lịch sử quân sự thế giới. Nghiên cứu về con người và sự nghiệp của ông, thế giới không chỉ ca ngợi tài thao lược kiệt xuất, mà thường phân tích sâu 5 yếu tố cơ bản nhất và đó cũng là 5 bài học có giá trị lớn nhất làm nên một thiên tài quân sự.

Đoàn cán bộ, phóng viên Báo Hànộimới trao tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tờ báo Hànộimới đặc biệt, số ra chào mừng 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, trong đó có 3 bài viết liên quan đến Đại tướng.
Ảnh: Viết Thành


1. Trước hết, ông được đánh giá là một chuyên gia lỗi lạc hàng đầu về đường lối chiến tranh nhân dân của phong trào giải phóng dân tộc trong nước và trên thế giới
.

CeciB.Curry, một chuyên gia nghiên cứu lịch sử quân sự hiện đại có tên tuổi của Mỹ, đã viết cuốn sách “Võ Nguyên Giáp, một thiên tài quân sự”, xuất bản ở Mỹ năm 1997. Cuốn sách được dịch ra tiếng Pháp năm 2003 ấn hành ở Pa-ri và cũng được dịch ra tiếng Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh, trích lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Chiến lược chiến tranh của chúng tôi không phải chỉ liên quan đến những công việc thuần túy quân sự. Chiến tranh phải là một chiến lược tổng thể kết hợp nhiều yếu tố khác nhau. Mục đích chính trị là căn bản. Quân đội không phải chỉ có nhiệm vụ chiến đấu, mà phải tuyên truyền, giáo dục dân chúng. Như vậy, mọi người đều là lính. Tất cả, mỗi làng, mỗi quận (huyện) là một pháo đài và cả nước chúng tôi là một chiến trường rộng lớn. Chúng tôi tập trung lực lượng ở vùng này hay vùng khác tùy thuộc vào điều kiện chính trị chiếm ưu thế từng thời kỳ trong từng giai đoạn. Điều này là một nguyên tắc chiến lược rất quan trọng để tiến hành chiến tranh toàn dân…” (Nguyên văn của dịch giả Nguyễn Văn Sự).

Đường lối chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã nêu rõ phải tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; xây dựng LLVT với 3 thứ quân gồm: Dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, trong đó bộ đội chủ lực làm nòng cốt, yếu tố vũ khí rất quan trọng nhưng yếu tố con người và chính trị tinh thần đóng vai trò quyết định; tiến hành chiến tranh du kích kết hợp với chiến tranh chính quy, lấy yếu địch mạnh, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng tinh thắng số lượng đông; tập trung kết hợp phân tán linh hoạt v.v.. Không chỉ quán triệt sâu sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam một cách hết sức sáng tạo. Ông coi trọng trước hết việc rèn luyện vững chắc bản lĩnh chính trị cho quân đội. Tình yêu nước nồng nàn, lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, tinh thần vì nhân dân quên mình, đoàn kết quân dân cá nước luôn được truyền lại và thấm sâu đến từng chiến sĩ. Các LLVT luôn ra sức luyện tập tinh thông kỹ thuật, chiến thuật, làm tốt công tác dân vận.

Ông kết hợp rất khéo léo, chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa… đạt kết quả toàn diện trên cả hai mặt trận: Kháng chiến và kiến quốc. Ở tuyến trước, quân dân Việt Nam thực hiện linh hoạt phương châm quân sự “2 chân, 3 mũi” (2 chân quân sự, chính trị song song, 3 mũi tấn công vũ trang, đấu tranh chính trị của quần chúng và binh địch vận), đánh địch khắp ba vùng chiến lược: Rừng núi, đồng bằng, đô thị. Còn ở tuyến sau, luôn xây dựng, củng cố vững chắc căn cứ địa cách mạng và hậu phương, chi viện đắc lực cho tiền tuyến. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự. Đường lối ưu việt của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ đã đánh bại và làm phá sản đường lối tốc chiến, tốc thắng và các chiến lược của những đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ 20.

Tổng biên tập Báo Hànộimới Hồ Quang Lợi thăm hỏi sức khỏe Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh: Viết Thành


2. Tư duy khoa học của Võ Nguyên Giáp về xây dựng lực lượng quân sự rất độc đáo, sáng tạo và toàn diện.

Bắt đầu từ con số 0, ông đã có và có tất cả những đơn vị chiến đấu, phục vụ chiến đấu đáp ứng được nhu cầu chiến tranh trong hoàn cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn trăm bề. Ông hội tụ được một đội ngũ cán bộ ưu tú các cấp, có khả năng độc lập, tự chủ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở những địa bàn tinh nhuệ được xây dựng thành một binh chủng chính quy. Ngành quân y và cái bếp mang tên người Anh hùng Hoàng Cầm, được triển khai đến tận đại đội trong chiến đấu. Ông là người đề xuất mở đường Trường Sơn, về sau mang tên huyền thoại đường Hồ Chí Minh và còn phát triển thêm “Con đường mòn” trên biển. Bộ đội hành quân bộ hàng trăm, hàng nghìn cây số ra mặt trận. Mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải quá thô sơ. Bảo đảm hậu cần bằng gồng gánh, thồ xe đạp, mang vác trên vai hơn 50kg vượt qua biết bao sông suối, núi đèo, đói rét, bệnh tật, thú dữ, đạn bom. Một nền hậu cần thời trung cổ đã thắng một nền hậu cần hiện đại, khổng lồ nhất thế giới của quân đội Pháp, Mỹ.

3. Võ Nguyên Giáp là một vị tướng sắc sảo nhất về nghệ thuật khoét sâu chỗ yếu của địch.

Ông rất cẩn trọng trong so sánh tương quan lực lượng đôi bên, không bao giờ đánh giá thấp đối phương. Cách đánh tập trung quy mô nhỏ. Chỗ yếu lớn nhất của địch là chiến tranh phi nghĩa, không có được các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt Nam thì ngược lại, với cuộc chiến tranh toàn dân, đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ đều là chiến sĩ, làm cho quân địch luôn lo sợ cái chết rập rình. Chúng lo sợ cả gỗ, đá, thân tre, lá lúa đều biến thành chông, bẫy, gươm, dao. Địch tập trung lớn, ta biết tránh đối đầu trực diện, làm cho chúng không tìm thấy đối phương, hiệu suất chiến đấu rất thấp. Chúng ta biết linh hoạt phân tán và tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh vào chỗ sơ hở, điểm yếu và hiểm yếu của địch, gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Võ Nguyên Giáp là vị tướng luôn chủ động bắt buộc đối phương bị động thay đổi thế cờ, đánh theo cách đánh của ông, vì thế mà phá sớm về chiến thuật, chiến dịch, chiến lược, dẫn đến thất bại hoàn toàn.

4. Về tài thao lược, thế giới xem ông là bậc thầy về chiến lược, chiến thuật quân sự.

Hơn 30 năm chỉ huy quân sự, Võ Nguyên Giáp chưa bao giờ phạm sai lầm về chiến lược. Ngược lại, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp đã buộc 10 danh tướng Pháp, Mỹ mắc sai lầm về chiến lược và thua trận, trong đó có 7 đại tướng Pháp: Philippe Leclerc, Eátienne Va lluy, C.Blaijot, M.Cargentier, Delattre De Tassigny, Raoal Salan, Henri Navarre và 3 đại tướng Mỹ: Westmoreland, C.Abrams và F.C.Weyand.

Các thiên tài quân sự thường truyền lại binh thư, binh pháp. Võ Nguyên Giáp đã dốc tâm trí nghiên cứu học thuyết quân sự của giai cấp vô sản và tư bản, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Liên Xô, chiến tranh chống Nhật của Trung Quốc, lý luận quân sự của Clausewit , những trận đánh của Napoléon, truyền thống đánh giặc của tổ tiên, những trận đánh thắng và không thắng của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đúc kết thành những nguyên tắc quân sự độc đáo của Việt Nam. Các sách quân sự và các tác phẩm văn học của ông đã giúp nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự trên thế giới hiểu biết về cuộc chiến tranh toàn dân và tự giải đáp được nguyên nhân vì sao thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp không qua một trường quân sự nào, ông học trong thực tế là chính. Chiến tranh luôn ẩn chứa nhiều yếu tố ngẫu nhiên không thể biết và lường trước được hết. Ông không xử trí chiến thuật quân sự bằng những "giải pháp quân sự cố định học đường", mà luôn xuất phát từ thực tế chiến trường để giải quyết mọi tình huống ngoài dự kiến và lật ngược thế cờ. Lý luận về "trận đánh quyết định" trong học thuyết quân sự của ông được giới quân sự chú ý và nghiên cứu. Ông cho rằng, ta có thể đánh thắng địch trong khi chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất và ngay cả khi chúng cho là ta không thể thắng chúng, miễn là ta có cách đánh đúng và thích ứng với thực tế... Ông đã hoàn toàn đúng với học thuyết về "trận đánh quyết định" ở Điện Biên Phủ, "Điện Biên Phủ trên không" và chiến dịch Hồ Chí Minh.

Với bài báo "Tướng Giáp suýt thua trong trận đánh Điện Biên Phủ như thế nào?" đăng trên tờ "Người quan sát mới", nhà sử học Pháp Boudaren đã phản biện đại ý: Tướng Giáp đã hai lần tấn công thất bại "Con nhím Nà Sản". Lần thứ nhất, dùng chiến thuật "Đầu nhọn đuôi dài"... bị tổn thất mà không thắng. Lần thứ hai, sớm nhận ra Tướng Giáp sẽ chỉ đạo thay đổi chiến thuật, dùng cách đánh "Khoanh chặt để bắt sống con nhím", Navarre đã rút bỏ Nà Sản; ta đã giải phóng được địa bàn nhưng thất bại ý đồ chính là tiêu diệt sinh lực địch; Tướng Giáp dám "Khoanh chặt để bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ" là ông ta dám thế chấp sinh mạng chính trị của mình cho trận đánh, vì nếu thua thì ông sẽ mất hết, dù ông còn sống thì đó cũng chỉ là sự tồn tại. Phải có một bản lĩnh lớn, ông mới thuyết phục được các cố vấn Trung Quốc từ bỏ ý định "Đánh nhanh, thắng nhanh, với chiến thuật đầu nhọn, đuôi dài nở hoa trong lòng địch". Và mọi người đã đồng thuận chấp nhận cách đánh của ông-cách đánh của Việt Nam-cách đánh Bác Hồ luôn căn dặn, đó là "Đánh chắc, tiến chắc; dùng chiến thuật bao vây đánh lấn theo kiểu bóc vỏ, xẻ múi, nghiền hạt". Tướng Giáp đã bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ, không cho nó xổng chuồng.

5. Võ Nguyên Giáp là vị tướng có một nhân cách phi thường.

Nét đẹp cao quí tập trung nhất về nhân cách của ông là tinh thần "Dĩ công vi thượng". Ông tâm niệm, làm theo lời răn dạy đó của Bác Hồ suốt cả đời mình. Với ông, Tổ quốc, dân tộc và Đảng là trên hết, không gì thiêng liêng, cao cả hơn. Trước sóng gió trên mặt trận quân sự và cả trong cuộc sống, ông tỉnh táo lạ thường, tỉnh táo đến sáng suốt tuyệt vời. Ông luôn gạt cá nhân mình sang một bên, đặt sinh mạng chính trị của đất nước, nhân dân lên trên hết, tìm cách thu hẹp mọi bất đồng, mâu thuẫn; nhằm khắc phục những khuyết điểm, sai lầm gây nguy hại cho quốc gia, dân tộc. Ông luôn tỏ rõ là một vị tướng tài đức song toàn, có uy tín cao và tròn vẹn, là chỗ dựa tinh thần và nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên.

Ông rất mực khiêm tốn: Công trạng của ông vô cùng to lớn nhưng ông không nói về mình, luôn đề cao công lao thành tích của nhân dân, quân đội, Đảng và Bác Hồ.

Tháng 2-1989, ông thay mặt Chính phủ tiếp kiến Thống chế Méhra-người thống lĩnh chỉ huy lực lượng không quân và các lực lượng phòng không toàn Ấn Độ dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự cấp cao Ấn Độ sang thăm nước ta. Thống chế Méhra không ngớt lời ca ngợi ông là một vị tướng huyền thoại. Ông cảm ơn và từ tốn đáp lời: "Nếu không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, nhân dân và quân đội anh hùng, tướng lĩnh chúng ta dù tài giỏi đến đâu, cũng không thể làm nên công trạng, thành tích". Thống chế Méhra rất tâm đắc lời ông.

Tháng 11-1998, John Kennedy (con trai Tổng thống Mỹ Kennedy) cho đăng trên tạp chí George cuộc phỏng vấn ông. John Kennedy hỏi: "Ai là vị tướng người Việt giỏi nhất?". Không một phút suy nghĩ, ông trả lời ngay: "Nhân dân Việt Nam", John Kennedy rất bất ngờ và thú vị.

Học và làm theo Bác, ông rất chuộng lối sống giản gị, thanh cao. Căn phòng tiếp khách của ông đã đón tiếp không biết bao nhiêu người có địa vị xã hội cao ở nhiều nước, nhưng không có đồ vật gì sang trọng cả. Ông đi tàu hỏa về thăm quê hương. Ông đi máy bay dân dụng lên thăm Điện Biên Phủ. Ông chan hòa tình cảm với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ rất hồn nhiên, vui vẻ.

Trên lĩnh vực quân sự, nhân cách của ông tỏa sáng rực rỡ tinh thần quyết đoán, dân chủ, nhân hậu.

Trước những quyết định khó khăn, đòi hỏi người chỉ huy phải dũng cảm, trí tuệ. Về điều này, trong lịch sử quân sự thế giới, ít người sánh kịp. Ông cho rằng, những thắng lợi trên chiến trường, xét cho cùng là do những người trực tiếp chiến đấu quyết định. Vì vậy, ông rất coi trọng phát huy dân chủ. Ông luôn chịu khó lắng nghe, chọn lọc và trân trọng những sáng kiến, cách đánh hay của cán bộ, chiến sĩ và trong nhân dân, tạo nên một khối đoàn kết vững chắc, một sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh toàn dân.

Ông rất nghiêm minh về kỷ luật nhưng cũng rất bao dung, nhân hậu. Ông xem cán bộ, chiến sĩ như anh em trong một đại gia đình cách mạng. Ông hết lòng yêu thương chiến sĩ và không ít lần đã khóc trước thương vong của bộ đội, nhân dân trong chiến tranh. Đặc biệt, ông quí từng giọt máu của người lính. Ông tâm sự với đội ngũ cán bộ thuộc quyền rằng: Chiến tranh không phải là vấn đề thể diện, không được phiêu lưu, mạo hiểm, không cho phép đánh đổi bằng bất cứ giá nào. Một người chỉ huy giỏi là một người đánh thắng kẻ thù nhưng ta thương vong thấp nhất, đổ xương máu ít nhất. Sinh mạng của con người là vô giá và không gì có thể bù đắp được nỗi đau mất mát trong chiến tranh.

Dĩ công vi thượng, khiêm tốn, sống giản dị, thanh cao, quyết đoán, dân chủ và bao dung, nhân hậu -Đó là nhân cách Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của vị chỉ huy tối cao Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, những chiến thắng vĩ đại mà Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp góp phần làm nên, đã tác động mạnh mẽ vào dòng chảy lịch sử, làm thay đổi bộ mặt thế giới thứ ba và số phận một số nước trên thế giới, thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Nhân dân Ấn Độ gọi ông là “Một con người Việt Nam đã thuộc về toàn thế giới”. Còn khắp năm châu, ông không chỉ được tôn vinh là một vị tướng huyền thoại, mà còn là một thiên tài quân sự của mọi thời đại. Điều này, không có gì khó hiểu. Vì ông là một trong những người học trò xuất sắc nhất và là bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Đại tướng của nhân dân, người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Và có lẽ, chính những tên gọi giản dị này lại ghi đậm trong ta những ấn tượng đẹp đẽ, sâu sắc nhất, những bài học quí giá cần được chiêm nghiệm mỗi khi ta nghĩ đến con người và sự nghiệp của ông đã hiến dâng cho nhân dân, đất nước ta.


Hồ NgọcSơn Theo Báo Quân đội nhân dân


Người đông Văn Miếu, khách vắng Hoàng Thành 16/02/2010 00:00



Người đông Văn Miếu, khách vắng Hoàng Thành
16/02/2010 00:00

(HNMO) - Mùng 2 Tết Canh Dần (15/2), Hà Nội se lạnh, đường khô ráo với tiết trời khá đẹp cho việc du xuân, chơi Tết. Cùng với dòng người vào thăm Văn Miếu và Hoàng Thành Hà Nội PV Hànộimới Online đã kịp ghi lại một số hoạt động tại 2 nơi này.

Cũng như nhiều năm trước, Văn Miếu vẫn là nơi thu hút nhiều khách nhất. Mặc dù phải mua vé (10 ngàn đồng/người) để vào cửa, nhưng dòng người vẫn nườm nượp kéo tới Văn Miếu để cúng lễ, thắp hương, xin chữ đầu năm, hoặc sờ đầu rùa lấy may. Bãi xe máy gần như chật cứng không còn chỗ; ô tô đỗ đầy 2 bên đường Quốc Tử Giám đã có nhiều lúc gây tắc nghẽn giao thông cục bộ, nhưng dòng người vẫn không ngớt đổ về Văn Miếu cho tới chiều tối. Không ít gia đình đi cả nhà tới đây đầu năm. Đặc biệt, có rất nhiều nam thanh nữ tú đến để cầu may về việc học hành, thi cử cho thấy sự linh thiêng của mảnh đất vốn mệnh danh là “Trường đại học đầu tiên” này của kinh thành Thăng Long. Chỉ tới khi bước ra khỏi Văn Miếu người ta mới cảm thấy nhẹ nhõm như vừa hoàn thành xong một nhiệm vụ thiêng liêng đầu năm.

“Sau khi lễ thầy Chu Văn An ở đây cháu rất tin là mình sẽ đỗ Đại học trong năm nay" - Nguyễn Lan Anh, học sinh lớp 12 Trường PTTH Kim Liên cho biết. - "Đương nhiên, cháu vẫn sẽ phải cố gắng nhiều hơn trong học kỳ 2 tới…”

Dòng người nườm nượp xếp hàng mua vé vào Văn Miếu
Sờ đầu rùa và bia Tiến sĩ để lấy may trong việc học hành
Xin chữ bên ngoài cửa Văn Miếu để lấy may cả năm

Không giống điểm du xuân tại Văn Miếu, lượng khách tới thăm Hoàng thành Thăng Long thưa thớt và ít hơn nhiều, mặc dù tất cả đều được vào cửa tự do. Ngoài ra, sáng mùng 2 Tết tại đây mới khai trương Phòng trưng bày “Kinh đô Thăng Long thời Đại Việt” của Bảo tàng Hà Nội nhằm giới thiệu với công chúng những hiện vật cổ thời Lý, Trần, Lê – Mạc (từ thế kỷ 13 tới 17), cũng như những sản phẩm tiêu biểu của các làng nghề, phố nghề Thăng Long – Hà Nội hiện đang được lưu giữ trong kho của Bảo tàng HN.

Hướng dẫn viên của Bảo tàng (giữa)
Phòng trưng bày bên ngoài được bày biện, trang trí rất đơn giản
Một số đồ vật cổ, kỳ thạch được trưng bày tại Hoàng Thành nhân dịp
Tết Canh Dần

Về việc vắng khách, một số người tới thăm quan cho rằng, nguyên nhân chủ yếu là do trước đó chưa quảng bá rộng rãi có hiệu quả. Hơn nữa, việc tổ chức thiếu chuyên nghiệp, trưng bày còn sơ sài, lộn xộn, thiếu chú thích cũng như hướng dẫn viên có kiến thức nên Phòng trưng bày “Kinh đô Thăng Long thời Đại Việt” của Bảo tàng Hà Nội tại khu di tích Hoàng Thành đã chưa thu hút được du khách. Tuy nhiên, riêng mảng trưng bày giới thiệu về những Kỳ thạch, gỗ lũa với các chủ đề “Văn hóa tâm linh Việt”; “Hồn Việt”… đã kích thích được trí tò mò của người xem và được nhiều người chú ý, khen ngợi.

Trọng Phú – Quang Anh

Sắc xuân trên đất Mộc Châu

Sắc xuân trên đất Mộc Châu

Về với Mộc Châu trong những ngày giáp Tết Nguyên đán, tôi dừng chân ở bản Lọng Nuông xã Lọng Nuông huyện Mộc châu tỉnh Sơn La.

Mùa xuân, miền núi cao phía Bắc có sức hút kì lạ. Sức hút ấy hiển hiện ngay trong vách núi, từng thửa ruộng bậc thang, một không gian sương mù bảng lảng,…

Tôi thật may mắn tôi đến đây đúng vào rạng sáng,cảnh những thung lũng mận đang ngập đầy sương mù bị ánh nắng sé toạc để lộ ra cánh hoa trắng muốt, thật lung linh huyền ảo, hơi Xuân làm những cánh hoa mỏng manh nở tung rự rỡ.

Không gian như ấm lại bởi sắc hoa đào. Người dân bản Lọng Nuông nay đã khác trước họ đã biết cách làm kinh tế, cứ mỗi độ xuân về mọi người lại mang những cành đào ra bán.

Bình minh trên bản Lọng Nuông.

Bình minh trên bản Lọng Nuông.

Những chiếc xe máy chở đào đi bán.

Những chiếc xe máy chở đào đi bán.

Con đường vào bản rực rỡ sắc hoa.

Con đường vào bản rực rỡ sắc hoa.

Cánh đào e ấp.

Cánh đào e ấp.

Người dân chuẩn bị đào ra chợ.

Người dân chuẩn bị đào ra chợ.

Những cành đào rực rỡ.

Những cành đào rực rỡ.

Người phụ nữ trước thềm nhà.

Người phụ nữ trước thềm nhà.

Tranh thủ thêu thùa.

Tranh thủ thêu thùa.

Trai bản bên đường.

Trai bản bên đường.

Trẻ em với niềm vui Tết đến.

Trẻ em với niềm vui Tết đến.

Rộn ràng không khí năm mới.

Rộn ràng không khí năm mới.

Phùng Văn Luân