Lương công chức thấp sao vẫn mua được ô tô?
01/10/2011 07:10
(VTC News) – Trong khi lương công chức nói chung thấp nhưng có bộ phận cán bộ vẫn sống sung túc, có ô tô, biệt thự…
Lời Tòa soạn: Tại cuộc hội thảo về cải cách tiền lương vừa diễn ra tại Hải Phòng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, TS Thang Văn Phúc đã trình bày nhiều ý kiến phân tích, mổ xẻ những tồn tại của chính sách tiền lương hiện nay và định hướng cải cách trong những năm tới.
VTC News xin trích đăng bài phát biểu này. Tên bài do tòa soạn đặt.
Lương công chức thấp sao vẫn mua được ô tô?
Lương thấp nhưng nhiều người vẫn có nhà lầu, xe hơi.
Lương thấp nhưng vẫn có nhà lầu, xe hơi
Từ năm 1999 đến nay, đã trải qua 3 lần cải cách tiền lương (các năm 1985, 1993, 2004) nhưng tiền lương công chức vẫn chưa tương xứng với vị trí lao động quyền lực, có trình độ và hao phí lao động phức tạp bằng trí óc, có phạm vi ảnh hưởng lớn và đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao của công chức Nhà nước.
Mức lương chính thức của công chức quá thấp so với khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Ngay cả so sánh với khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra sự không công bằng trong xã hội. Lương không đảm bảo cuộc sống của bản thân công chức và gia đình họ (có thể ước tính chỉ đáp ứng 30 – 40% nhu cầu tối thiểu của một gia đình công chức).
Vì thế, công chức buộc phải xoay sở để có thêm thu nhập; trong đó có những thu nhập hợp pháp. Song, có khá nhiều thu nhập không chính đáng, bất hợp pháp dựa vào quyền lực của công chức (những người có quyền cấp đất, cho thuê đất, có quyền duyệt dự án đầu tư, cấp tín dụng, cho khoanh nợ; có quyền bổ nhiệm chức vụ, có quyền can thiệp vào kết quả xét xử của tòa án…) mà thực chất là tham nhũng.
Tình trạng này càng gây ra bất công lớn trong công chức và xã hội, gây ra tâm trạng bức xúc của người dân với công chức.
Mặt khác, hệ thống bảng lương được thiết kế quá phức tạp, thiếu hợp lý, số bậc lương quá nhiều (56 bậc); chênh lệch giữa các bậc lương lại quá nhỏ (khoảng 0,3); thời gian nâng bậc dài đến 3 năm; từ bậc lương thấp nhất đến cao nhất phải mất…70 năm. Tình trạng này đã không động viên công chức phấn đấu.
Chế độ phụ cấp tuy đã có tới 8 loại nhằm khuyến khích người lao động trong các khu vực địa bàn và công việc khác nhau, song vẫn còn nhiều điều vô lý.
Vấn đề “tiền tệ hóa tiền lương” tuy được nói đến từ lâu nhưng chưa được thực hiện. Vì vậy, công chức giữ chức vụ quản lý đang có sự chênh lệch lớn giữa lương chính thức với các khoản ngoài lương (như khoán quỹ lương, xe cộ, nhà ở, điện thoại, công tác phí…) mà thực chất vẫn lấy từ ngân sách. Điều đó không những gây ra bất công giữa các loại công chức mà còn gây ra lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước.
Hậu quả
Do không thu hút được nhiều người tài nên xảy ra tình trạng chất lượng hệ thống thể chế kinh tế, hành chính, các quyết sách về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội có phần hạn chế.
Lương công chức thấp sao vẫn mua được ô tô?
Bao giờ công chức sống được bằng lương?
Đã có những văn bản pháp luật xa rời cuộc sống, không khả thi, thậm chí thu vén cho lợi ích cơ quan ban hành thể chế, gây khó khăn cho dân và doanh nghiệp; có văn bản pháp quy phải sửa đổi sau khi ban hành một thời gian ngắn…
Một số công chức đã bỏ cơ quan Nhà nước ra đi…đã cho thấy bộ máy Nhà nước không đủ sức thu hút họ, nhất là không tạo được môi trường thuận lợi để phát huy tài năng và thăng tiến.
Ngược lại, một số vẫn muốn vào bộ máy Nhà nước, do có người có thiện chí mong muốn đóng góp cho công việc chung của đất nước, nhưng không ít người muốn có một chỗ trong biên chế, thậm chí phải “mua” một vị trí xứng đáng trong bộ máy, vì họ muốn có chỗ để kiếm chác, mưu cầu lợi ích không chính đáng hoặc do những nguyên nhân khác.
Đáng quan tâm là một số công chức thoái hóa, biến chất, đã lợi dụng chức vụ để tham nhũng, làm giàu bất chính, gây bức xúc lớn cho xã hội.
Vì vậy, lòng tin của các tầng lớp nhân dân với bộ máy Nhà nước và công chức đã bị giảm sút một mức đáng kể. Thực tế, người dân và doanh nghiệp đến cơ quan công quyền, tiếp xúc với những cơ quan chức năng đã không tránh khỏi bị hạch sách, nhũng nhiễu, phải có “phong bì” lót tay…
Do đó, nhất thiết phải trả lương cho đúng công chức, không để kéo dài tình trạng lương công chức quá thấp, mà một nguyên nhân chủ yếu là bộ máy và những người hưởng lương từ ngân sách tăng thêm quá nhanh, không đủ chi tiền lương.
Nếu ngân sách không đủ tiền, phải giảm một số người trong biên chế Nhà nước, để những người còn lại được hưởng lương một cách đúng đắn, không thể kéo dài tình trạng lương không đủ sống.
(còn phần 2: "Đổi mới chính sách tiền lương thế nào?")
TS Thang Văn Phúc
(Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ)
Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011
Phóng phi thuyền, chuẩn bị xây dựng trạm vũ trụ
TRUNG QUỐC -
Bài đăng : Thứ năm 29 Tháng Chín 2011 - Sửa đổi lần cuối Thứ năm 29 Tháng Chín 2011
Phi thuyền Tiangong-1
Phi thuyền Tiangong-1
REUTERS/Petar Kujundzic
Trọng Thành
Ngày 29/9/2011, đài truyền hình Quốc gia Trung Quốc thông báo, một phi thuyền của Trung Quốc được đưa lên quỹ đạo để thử nghiệm các kỹ thuật ráp nối trong không gian, nhằm chuẩn bị xây dựng một trạm vũ trụ vào năm 2020.
Từ sân bay vũ trụ Tửu Tuyền nằm trong sa mạc Gobi, phi thuyền Tiangong-1 (Thiên cung 1) nặng 8,5 tấn, được phóng lên vũ trụ vào buổi trưa hôm nay 29/09/11 theo giờ địa phương. Trả lời phỏng vấn báo Global Times, một chuyên gia về công nghệ vũ trụ của Trung Quốc cho biết, việc phóng phi thuyền kể trên là giai đoạn chuẩn bị để Trung Quốc tiến tới xây dựng một trạm không gian riêng. Để làm được điều này Trung Quốc phải làm chủ được kỹ thuật ráp nối các phi thuyền trên không gian. Đây là một thách thức rất lớn, khi các phi thuyền di chuyển với tốc độ khoảng 28.000 km/giờ.
Theo bà Isabelle Sourbès-Verger, chuyên gia về chương trình vũ trụ của Trung Quốc, thuộc Trung tâm Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), Trung Quốc thừa hưởng được kỹ thuật ráp nối và công nghệ tàu Soyouz của Nga.
Phi thuyền Tiangong-1 dự kiến sẽ ở trên quỹ đạo cho đến năm 2013. Trong vòng một tháng tới, Tiangong-1 phải ráp nối với phi thuyền Shenzhou VIII (Thần châu –VIII). Hai phi thuyền sẽ ráp vào nhau trong vòng 12 ngày, trước khi tách ra, rồi dự kiến sẽ hợp lại một lần nữa.
Cũng theo chuyên gia công nghệ vũ trụ Trung Quốc nói trên, từ năm 1966 đến nay, đã có 300 cuộc ráp nối trên vũ trụ, trong đó có 17 trường hợp thất bại. Vào tháng 7/2010, phi thuyền Progress của Nga đã thất bại một lần, trước khi nối được với trạm vũ trụ quốc tế ISS. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc thử nghiệm kỹ thuật ráp nối các phi thuyền trong không gian. Tiếp theo đó, Tiangong-1 sẽ được ráp với Shenzhou IX và Shenzhou X, dự kiến sẽ chuyên chở ít nhất một nhà du hành vũ trụ.
AFP nhận xét, giống như chuyến bay lên vũ trụ có người năm 2003, hiện nay Trung Quốc đang trong giai đoạn rượt đuổi về công nghệ vũ trụ, với việc thực hiện các thử nghiệm mà Mỹ và Nga đã tiến hành trong những năm 1960. Trước khi chế tạo được một trạm vũ trụ từ nay đến năm 2020, giống như trạm Mir của Nga hay trạm quốc tế ISS, nơi các nhà du hành có thể sống độc lập trong nhiều tháng, Trung Quốc sẽ phải tiếp tục có những thử nghiệm khác, sau khi Tiangong-1 rời quỹ đạo vào năm 2013.
Theo nhà nghiên cứu Pháp, dù cho có thành công trong việc ráp nối các phi thuyền, Trung Quốc sẽ phải mất ít nhất là 5 năm mới có thể tham gia hợp tác với trạm vũ trụ quốc tế ISS. Theo chuyên gia vũ trụ người Úc Morris Jones, việc Trung Quốc tham gia vào ISS bị cản trở vì lý do « chính trị », đặc biệt là từ phía Hoa Kỳ.
Bài đăng : Thứ năm 29 Tháng Chín 2011 - Sửa đổi lần cuối Thứ năm 29 Tháng Chín 2011
Phi thuyền Tiangong-1
Phi thuyền Tiangong-1
REUTERS/Petar Kujundzic
Trọng Thành
Ngày 29/9/2011, đài truyền hình Quốc gia Trung Quốc thông báo, một phi thuyền của Trung Quốc được đưa lên quỹ đạo để thử nghiệm các kỹ thuật ráp nối trong không gian, nhằm chuẩn bị xây dựng một trạm vũ trụ vào năm 2020.
Từ sân bay vũ trụ Tửu Tuyền nằm trong sa mạc Gobi, phi thuyền Tiangong-1 (Thiên cung 1) nặng 8,5 tấn, được phóng lên vũ trụ vào buổi trưa hôm nay 29/09/11 theo giờ địa phương. Trả lời phỏng vấn báo Global Times, một chuyên gia về công nghệ vũ trụ của Trung Quốc cho biết, việc phóng phi thuyền kể trên là giai đoạn chuẩn bị để Trung Quốc tiến tới xây dựng một trạm không gian riêng. Để làm được điều này Trung Quốc phải làm chủ được kỹ thuật ráp nối các phi thuyền trên không gian. Đây là một thách thức rất lớn, khi các phi thuyền di chuyển với tốc độ khoảng 28.000 km/giờ.
Theo bà Isabelle Sourbès-Verger, chuyên gia về chương trình vũ trụ của Trung Quốc, thuộc Trung tâm Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), Trung Quốc thừa hưởng được kỹ thuật ráp nối và công nghệ tàu Soyouz của Nga.
Phi thuyền Tiangong-1 dự kiến sẽ ở trên quỹ đạo cho đến năm 2013. Trong vòng một tháng tới, Tiangong-1 phải ráp nối với phi thuyền Shenzhou VIII (Thần châu –VIII). Hai phi thuyền sẽ ráp vào nhau trong vòng 12 ngày, trước khi tách ra, rồi dự kiến sẽ hợp lại một lần nữa.
Cũng theo chuyên gia công nghệ vũ trụ Trung Quốc nói trên, từ năm 1966 đến nay, đã có 300 cuộc ráp nối trên vũ trụ, trong đó có 17 trường hợp thất bại. Vào tháng 7/2010, phi thuyền Progress của Nga đã thất bại một lần, trước khi nối được với trạm vũ trụ quốc tế ISS. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc thử nghiệm kỹ thuật ráp nối các phi thuyền trong không gian. Tiếp theo đó, Tiangong-1 sẽ được ráp với Shenzhou IX và Shenzhou X, dự kiến sẽ chuyên chở ít nhất một nhà du hành vũ trụ.
AFP nhận xét, giống như chuyến bay lên vũ trụ có người năm 2003, hiện nay Trung Quốc đang trong giai đoạn rượt đuổi về công nghệ vũ trụ, với việc thực hiện các thử nghiệm mà Mỹ và Nga đã tiến hành trong những năm 1960. Trước khi chế tạo được một trạm vũ trụ từ nay đến năm 2020, giống như trạm Mir của Nga hay trạm quốc tế ISS, nơi các nhà du hành có thể sống độc lập trong nhiều tháng, Trung Quốc sẽ phải tiếp tục có những thử nghiệm khác, sau khi Tiangong-1 rời quỹ đạo vào năm 2013.
Theo nhà nghiên cứu Pháp, dù cho có thành công trong việc ráp nối các phi thuyền, Trung Quốc sẽ phải mất ít nhất là 5 năm mới có thể tham gia hợp tác với trạm vũ trụ quốc tế ISS. Theo chuyên gia vũ trụ người Úc Morris Jones, việc Trung Quốc tham gia vào ISS bị cản trở vì lý do « chính trị », đặc biệt là từ phía Hoa Kỳ.
Giáo dục đại học: Đổi mới thụt lùi?
06:31 | 30/09/2011
Giáo dục đại học: Đổi mới thụt lùi?
> Nhất thiết phải cải cách giáo dục
TP - Một số đổi mới của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam thời gian qua có thể khiến chất lượng đào tạo đi xuống. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội nhận định.
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết. Ảnh: M.H
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết. Ảnh: M.H.
Năm ĐH công lập sẽ được thí điểm thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chuyên môn, tổ chức biên chế, tài chính, nhân sự. Việc này có tác động như thế nào tới chất lượng giáo dục ĐH?
Tôi cho rằng, những quy định về quyền tự chủ của các trường trong dự thảo luật GDĐH là quy định cởi mở nhất từ trước tới nay. Nếu được thông qua, thì đến đầu năm 2013, không chỉ năm trường mà tất cả các trường đều tự chủ. Như vậy, việc để năm trường thí điểm thực hiện quyền tự chủ trong vòng một năm tới liệu có còn cần thiết và có gấp gáp quá không?
Nếu thận trọng hơn, nên có lộ trình; quyền tự chủ sẽ được xác lập theo những mức độ khác nhau, tùy năng lực của các trường. Điều quan trọng là phải có cơ chế để giám sát việc này.
Điều kiện tiên quyết nào để thực hiện quyền tự chủ trong các trường ĐH?
Trước hết, các trường phải có hội đồng trường, trong đó có sự tham gia của đại diện chủ sở hữu và các thành phần xã hội. Trong 450 trường ĐH, CĐ mới chỉ 8 trường có hội đồng trường, hoạt động èo uột. Nhiều trường mời doanh nghiệp tham gia hội đồng, nhưng doanh nghiệp cũng chẳng mặn mà dự họp hay đóng góp gì. Còn chính quyền và cộng đồng dân cư gần như không thể có tiếng nói nặng ký đối với kế hoạch, nội dung, phương pháp đào tạo và cách thức điều hành công việc của các trường.
Ngoài ra, phải có cơ chế kiểm định chất lượng đào tạo. Hiện nay, nước ta chưa có một tổ chức kiểm định nào, trừ Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng của Bộ GD&ĐT vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, vừa thực hiện nghiệp vụ tổ chức thi và kiểm định chất lượng.
Từ nay đến lúc có hệ thống kiểm định chất lượng, các trường phải tự kiểm định chất lượng rồi tự công bố. Đó mới là đánh giá trong. Muốn khách quan, phải có cả đánh giá ngoài.
Nhưng dù có hình thành được hệ thống kiểm định chất lượng thì với một hệ thống mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, cộng thêm yếu tố tiêu cực thường rất phổ biến trong xã hội hiện nay, liệu kết quả kiểm định của các tổ chức kiểm định có đảm bảo tin cậy không? Với những quy định trong dự thảo Luật GDĐH về kiểm định chất lượng, tôi chưa tìm thấy câu trả lời.
Bởi vậy, tôi chia sẻ với lo lắng của nhiều người là việc trao quyền tự chủ cho các trường, từ xác định chỉ tiêu tuyển sinh đến xây dựng chương trình đào tạo, in, cấp bằng… Không có lộ trình hợp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu sẽ khiến chất lượng giáo dục ĐH đã thấp lại càng thấp thêm.
Tự chủ, nhìn một khía cạnh nào đó cũng chính là một mô hình “thị trường hóa” giáo dục ĐH, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Với quan niệm truyền thống của người Việt Nam, nghề dạy học là nghề rất thiêng liêng. Nhiều nhà giáo dục hàng đầu kiên quyết phản đối khái niệm thị trường giáo dục. Nhưng chúng ta không thể duy ý chí được vì thực ra Việt Nam đã có thị trường giáo dục rồi.
Một số nước đã sang Việt Nam liên kết mở trường. Hầu hết các trường ngoài công lập của ta hiện nay đều hoạt động theo kiểu doanh nghiệp. Ngay ở trường công, cũng có những bộ phận hoạt động theo lợi nhuận. Bởi vậy, có thừa nhận thực tế này mới có chính sách đúng để điều chỉnh được.
Theo tôi, điều đáng bàn hơn là chất lượng của thị trường này. Mô hình đào tạo ĐH hiện nay có nhiều đổi mới nhưng rất phức tạp. Rất nhiều chương trình liên kết với nước ngoài là liên kết với những trường rởm, tức là những trường được phép thành lập như một doanh nghiệp nhưng không được công nhận chất lượng. Chính vì vậy, mới có chuyện người học được cấp bằng thạc sỹ, tiến sĩ của trường Mỹ mà không cần biết tiếng Anh!
Hoạt động của nhiều trường tư rất manh mún, vốn đầu tư rất nhỏ. Có trường tay không bắt giặc, xin được quyết định mở trường là chiêu sinh ngay mà không thèm có cơ sở vật chất, chỉ đi thuê. Tuyển sinh được là lại vốn rất nhanh. Như thế có khác gì lò luyện thi? Bức tranh ĐH của ta hiện nay giống như nhà ở đô thị cũ, diện tích chừng 30 - 40m2, ở thì được, nhưng về sau thành phố muốn giải tỏa để làm đẹp thì không có cách gì giải quyết vì không đủ tiền đền bù.
Nhằm tạo ra những mô hình mới làm hình mẫu cho GDĐH Việt Nam, gần đây, Nhà nước lập ra năm trường ĐH kết hợp với nước ngoài, gọi là ĐH xuất sắc. Tôi không tin vào hiệu quả của mô hình này, dù kinh phí bỏ ra rất lớn, đối ứng của phía Việt Nam cũng tới 200 triệu USD/trường. Tính ra năm trường đầu tư hết 1 tỷ USD, cộng thêm phần tài trợ quốc tế chắc chắn đây thuộc dự án phải đưa ra Quốc hội xem xét.
Năm 2010, một đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đi khảo sát một trong năm trường vào khóa đầu tiên. Khi đó, cả trường có 28 học sinh. Học phí 15.000 USD/người/năm. Để khuyến khích, Nhà nước đóng thay cho mỗi em 7.500 USD/năm.
Trong khi các em đó không thuộc đối tượng chính sách như gia đình có công với nước hoặc dân tộc thiểu số. Hơn nữa, học sinh vào các trường đó thường không phải học sinh xuất sắc. Nhà nước đầu tư như thế có đúng chỗ, đúng đối tượng không?
Cảm ơn ông.
Mỹ Hằng (thực hiện)
Sẽ thu lại quyền tự chủ nếu yếu kém hoặc vượt rào
(GS.TSKH Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT)
Ông Bùi Văn Ga
Ông Bùi Văn Ga .
Trong bối cảnh hệ thống giáo dục ĐH của nước ta hiện nay chưa đồng đều, có những trường đã có bề dày kinh nghiệm lâu năm nhưng có những trường mới được thành lập; có những trường có đội ngũ mạnh và kinh nghiệm quản lý tốt nhưng có những trường đội ngũ cán bộ giảng dạy còn mỏng và quản lý chưa vững vàng. Vì vậy, việc giao quyền tự chủ cho các trường trước mắt cần theo năng lực quản lý thực tế của từng trường.
Trong thực tế, các Đại học Quốc gia, đại học vùng, trường đại học trọng điểm đã được giao quyền tự chủ rất cao. Và mới đây, Bộ GD&ĐT cũng đã thí điểm giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao với những cơ chế đặc thù cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Số lượng các trường được giao quyền tự chủ sẽ tăng dần theo năng lực quản lý và chất lượng đào tạo của họ.
Điều 26 của dự thảo Luật GDĐH nhấn mạnh: “Cơ sở giáo dục đại học được giao quyền tự chủ tương ứng với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân với điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tự chủ, với cam kết trách nhiệm khi thực hiện tự chủ và với kết quả kiểm định chất lượng của cơ sở giáo dục đại học”.
Việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDĐH là không đồng loạt, mà có lộ trình, đồng thời nếu cơ sở GDĐH không còn đủ năng lực để thực hiện quyền tự chủ hoặc có hành vi vi phạm trong các hoạt động theo các quyền đã giao thì các quyền đã được giao sẽ bị thu hồi.
Hồ Thu (ghi)
Nên cho các trường tự mở ngành
(Ông Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội)
Dự thảo Luật GDĐH trao thêm quyền tự chủ cho các trường nhưng cần mở rộng hơn nữa. Đó là cho phép các trường mở ngành, từ trước đến nay quyền này thuộc về Bộ và xin phép rất khó khăn. Đương nhiên, Bộ sẽ kiểm tra các điều kiện về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên rồi mới cho phép mở.
Tuy nhiên, 2 tiêu chí này không phải hoàn toàn được như Bộ quy định, có nhiều trường có nhiều giáo viên kê khai tên dạy ở nhiều trường. Bộ nên kiểm tra lại việc này và không cho phép làm như vậy mà phải tính toán giáo viên quy đổi một cách cụ thể và nghiêm túc.
Mặc dù Dự thảo Luật GDĐH đã mở cho các trường nhiều hơn quyền tự chủ, nhưng vẫn nằm trong cơ chế xin - cho, nên bỏ bớt.
Bộ cho thành lập quá nhiều trường ĐH và mở nhiều ngành trùng lặp, trường nào cũng đào tạo kinh tế, tài chính, ngân hàng… Thậm chí có những ĐH lớn chuyên đào tạo khoa học cơ bản cũng nhảy vào đào tạo những ngành ăn khách kể trên.
Bộ GD&ĐT cần tính đến việc quy hoạch lại ngành nghề đào tạo của các trường một cách rõ ràng: ĐH lớn để đào tạo các ngành khoa học, ngành sư phạm thì chỉ đào tạo các ngành đó; các chuyên ngành hẹp để các trường khác làm. Bộ đã thả lỏng một thời gian, bây giờ rối ren và phải xem xét chấn chỉnh hàng chục năm, nhưng phải có biện pháp cứng rắn và thông qua Luật GDĐH sẽ có thể làm được.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT cho phép các trường đào tạo theo địa chỉ; các trường này tự xác định điểm chuẩn, học phí, địa điểm tuyển sinh… Có trường ĐH mở lớp đào tạo theo địa chỉ cho tỉnh A nhưng 2/3 sĩ số lớp là sinh viên Hà Nội với mức học phí không rẻ. Bộ cũng cần kiểm tra và buộc các trường phải công khai, minh bạch và bình đẳng với các trường khác.
H.T (ghi
Giáo dục đại học: Đổi mới thụt lùi?
> Nhất thiết phải cải cách giáo dục
TP - Một số đổi mới của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam thời gian qua có thể khiến chất lượng đào tạo đi xuống. GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội nhận định.
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết. Ảnh: M.H
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết. Ảnh: M.H.
Năm ĐH công lập sẽ được thí điểm thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về chuyên môn, tổ chức biên chế, tài chính, nhân sự. Việc này có tác động như thế nào tới chất lượng giáo dục ĐH?
Tôi cho rằng, những quy định về quyền tự chủ của các trường trong dự thảo luật GDĐH là quy định cởi mở nhất từ trước tới nay. Nếu được thông qua, thì đến đầu năm 2013, không chỉ năm trường mà tất cả các trường đều tự chủ. Như vậy, việc để năm trường thí điểm thực hiện quyền tự chủ trong vòng một năm tới liệu có còn cần thiết và có gấp gáp quá không?
Nếu thận trọng hơn, nên có lộ trình; quyền tự chủ sẽ được xác lập theo những mức độ khác nhau, tùy năng lực của các trường. Điều quan trọng là phải có cơ chế để giám sát việc này.
Điều kiện tiên quyết nào để thực hiện quyền tự chủ trong các trường ĐH?
Trước hết, các trường phải có hội đồng trường, trong đó có sự tham gia của đại diện chủ sở hữu và các thành phần xã hội. Trong 450 trường ĐH, CĐ mới chỉ 8 trường có hội đồng trường, hoạt động èo uột. Nhiều trường mời doanh nghiệp tham gia hội đồng, nhưng doanh nghiệp cũng chẳng mặn mà dự họp hay đóng góp gì. Còn chính quyền và cộng đồng dân cư gần như không thể có tiếng nói nặng ký đối với kế hoạch, nội dung, phương pháp đào tạo và cách thức điều hành công việc của các trường.
Ngoài ra, phải có cơ chế kiểm định chất lượng đào tạo. Hiện nay, nước ta chưa có một tổ chức kiểm định nào, trừ Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng của Bộ GD&ĐT vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước, vừa thực hiện nghiệp vụ tổ chức thi và kiểm định chất lượng.
Từ nay đến lúc có hệ thống kiểm định chất lượng, các trường phải tự kiểm định chất lượng rồi tự công bố. Đó mới là đánh giá trong. Muốn khách quan, phải có cả đánh giá ngoài.
Nhưng dù có hình thành được hệ thống kiểm định chất lượng thì với một hệ thống mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, cộng thêm yếu tố tiêu cực thường rất phổ biến trong xã hội hiện nay, liệu kết quả kiểm định của các tổ chức kiểm định có đảm bảo tin cậy không? Với những quy định trong dự thảo Luật GDĐH về kiểm định chất lượng, tôi chưa tìm thấy câu trả lời.
Bởi vậy, tôi chia sẻ với lo lắng của nhiều người là việc trao quyền tự chủ cho các trường, từ xác định chỉ tiêu tuyển sinh đến xây dựng chương trình đào tạo, in, cấp bằng… Không có lộ trình hợp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu sẽ khiến chất lượng giáo dục ĐH đã thấp lại càng thấp thêm.
Tự chủ, nhìn một khía cạnh nào đó cũng chính là một mô hình “thị trường hóa” giáo dục ĐH, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Với quan niệm truyền thống của người Việt Nam, nghề dạy học là nghề rất thiêng liêng. Nhiều nhà giáo dục hàng đầu kiên quyết phản đối khái niệm thị trường giáo dục. Nhưng chúng ta không thể duy ý chí được vì thực ra Việt Nam đã có thị trường giáo dục rồi.
Một số nước đã sang Việt Nam liên kết mở trường. Hầu hết các trường ngoài công lập của ta hiện nay đều hoạt động theo kiểu doanh nghiệp. Ngay ở trường công, cũng có những bộ phận hoạt động theo lợi nhuận. Bởi vậy, có thừa nhận thực tế này mới có chính sách đúng để điều chỉnh được.
Theo tôi, điều đáng bàn hơn là chất lượng của thị trường này. Mô hình đào tạo ĐH hiện nay có nhiều đổi mới nhưng rất phức tạp. Rất nhiều chương trình liên kết với nước ngoài là liên kết với những trường rởm, tức là những trường được phép thành lập như một doanh nghiệp nhưng không được công nhận chất lượng. Chính vì vậy, mới có chuyện người học được cấp bằng thạc sỹ, tiến sĩ của trường Mỹ mà không cần biết tiếng Anh!
Hoạt động của nhiều trường tư rất manh mún, vốn đầu tư rất nhỏ. Có trường tay không bắt giặc, xin được quyết định mở trường là chiêu sinh ngay mà không thèm có cơ sở vật chất, chỉ đi thuê. Tuyển sinh được là lại vốn rất nhanh. Như thế có khác gì lò luyện thi? Bức tranh ĐH của ta hiện nay giống như nhà ở đô thị cũ, diện tích chừng 30 - 40m2, ở thì được, nhưng về sau thành phố muốn giải tỏa để làm đẹp thì không có cách gì giải quyết vì không đủ tiền đền bù.
Nhằm tạo ra những mô hình mới làm hình mẫu cho GDĐH Việt Nam, gần đây, Nhà nước lập ra năm trường ĐH kết hợp với nước ngoài, gọi là ĐH xuất sắc. Tôi không tin vào hiệu quả của mô hình này, dù kinh phí bỏ ra rất lớn, đối ứng của phía Việt Nam cũng tới 200 triệu USD/trường. Tính ra năm trường đầu tư hết 1 tỷ USD, cộng thêm phần tài trợ quốc tế chắc chắn đây thuộc dự án phải đưa ra Quốc hội xem xét.
Năm 2010, một đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đi khảo sát một trong năm trường vào khóa đầu tiên. Khi đó, cả trường có 28 học sinh. Học phí 15.000 USD/người/năm. Để khuyến khích, Nhà nước đóng thay cho mỗi em 7.500 USD/năm.
Trong khi các em đó không thuộc đối tượng chính sách như gia đình có công với nước hoặc dân tộc thiểu số. Hơn nữa, học sinh vào các trường đó thường không phải học sinh xuất sắc. Nhà nước đầu tư như thế có đúng chỗ, đúng đối tượng không?
Cảm ơn ông.
Mỹ Hằng (thực hiện)
Sẽ thu lại quyền tự chủ nếu yếu kém hoặc vượt rào
(GS.TSKH Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT)
Ông Bùi Văn Ga
Ông Bùi Văn Ga .
Trong bối cảnh hệ thống giáo dục ĐH của nước ta hiện nay chưa đồng đều, có những trường đã có bề dày kinh nghiệm lâu năm nhưng có những trường mới được thành lập; có những trường có đội ngũ mạnh và kinh nghiệm quản lý tốt nhưng có những trường đội ngũ cán bộ giảng dạy còn mỏng và quản lý chưa vững vàng. Vì vậy, việc giao quyền tự chủ cho các trường trước mắt cần theo năng lực quản lý thực tế của từng trường.
Trong thực tế, các Đại học Quốc gia, đại học vùng, trường đại học trọng điểm đã được giao quyền tự chủ rất cao. Và mới đây, Bộ GD&ĐT cũng đã thí điểm giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao với những cơ chế đặc thù cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Số lượng các trường được giao quyền tự chủ sẽ tăng dần theo năng lực quản lý và chất lượng đào tạo của họ.
Điều 26 của dự thảo Luật GDĐH nhấn mạnh: “Cơ sở giáo dục đại học được giao quyền tự chủ tương ứng với vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân với điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tự chủ, với cam kết trách nhiệm khi thực hiện tự chủ và với kết quả kiểm định chất lượng của cơ sở giáo dục đại học”.
Việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDĐH là không đồng loạt, mà có lộ trình, đồng thời nếu cơ sở GDĐH không còn đủ năng lực để thực hiện quyền tự chủ hoặc có hành vi vi phạm trong các hoạt động theo các quyền đã giao thì các quyền đã được giao sẽ bị thu hồi.
Hồ Thu (ghi)
Nên cho các trường tự mở ngành
(Ông Vũ Văn Hóa, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội)
Dự thảo Luật GDĐH trao thêm quyền tự chủ cho các trường nhưng cần mở rộng hơn nữa. Đó là cho phép các trường mở ngành, từ trước đến nay quyền này thuộc về Bộ và xin phép rất khó khăn. Đương nhiên, Bộ sẽ kiểm tra các điều kiện về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên rồi mới cho phép mở.
Tuy nhiên, 2 tiêu chí này không phải hoàn toàn được như Bộ quy định, có nhiều trường có nhiều giáo viên kê khai tên dạy ở nhiều trường. Bộ nên kiểm tra lại việc này và không cho phép làm như vậy mà phải tính toán giáo viên quy đổi một cách cụ thể và nghiêm túc.
Mặc dù Dự thảo Luật GDĐH đã mở cho các trường nhiều hơn quyền tự chủ, nhưng vẫn nằm trong cơ chế xin - cho, nên bỏ bớt.
Bộ cho thành lập quá nhiều trường ĐH và mở nhiều ngành trùng lặp, trường nào cũng đào tạo kinh tế, tài chính, ngân hàng… Thậm chí có những ĐH lớn chuyên đào tạo khoa học cơ bản cũng nhảy vào đào tạo những ngành ăn khách kể trên.
Bộ GD&ĐT cần tính đến việc quy hoạch lại ngành nghề đào tạo của các trường một cách rõ ràng: ĐH lớn để đào tạo các ngành khoa học, ngành sư phạm thì chỉ đào tạo các ngành đó; các chuyên ngành hẹp để các trường khác làm. Bộ đã thả lỏng một thời gian, bây giờ rối ren và phải xem xét chấn chỉnh hàng chục năm, nhưng phải có biện pháp cứng rắn và thông qua Luật GDĐH sẽ có thể làm được.
Hiện nay, Bộ GD&ĐT cho phép các trường đào tạo theo địa chỉ; các trường này tự xác định điểm chuẩn, học phí, địa điểm tuyển sinh… Có trường ĐH mở lớp đào tạo theo địa chỉ cho tỉnh A nhưng 2/3 sĩ số lớp là sinh viên Hà Nội với mức học phí không rẻ. Bộ cũng cần kiểm tra và buộc các trường phải công khai, minh bạch và bình đẳng với các trường khác.
H.T (ghi
Tăng độ tuổi nghỉ hưu để giảm lãng phí nguồn lực
Góp ý dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi):
Tăng độ tuổi nghỉ hưu để giảm lãng phí nguồn lực
Thứ năm 15/09/2011 23:45
ANTĐ - Trong phiên họp chuyên đề hôm qua 15-9 về 9 dự án luật, dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã thu hút nhiều ý kiến đóng góp khác nhau của các thành viên Chính phủ.
Phụ nữ có nhiều cơ hội cống hiến hơn khi không bắt buộc về hưu ở tuổi 55
Những sửa đổi đáng chú ý
Đối với dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thời giờ làm thêm vẫn giữ như quy định hiện hành, tối đa 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm. Thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng. Về tuổi nghỉ hưu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng đối với người lao động thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động thì nên giữ như quy định hiện hành, 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ, tuy nhiên trong thời gian tới cần tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết: Dự án luật đã quy định tương đối toàn diện, tôn trọng và đề cao quyền tự chủ của người lao động, phù hợp với công ước quốc tế. Các thành viên Chính phủ cho rằng thời giờ làm thêm nên giữ như hiện hành, quy định thời gian làm thêm tối đa 200 giờ/năm, tuy nhiên, để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp mang tính đặc thù như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản thì Chính phủ cần có quy định riêng về thời gian làm thêm tối đa 300 giờ/năm. Việc đề xuất nâng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng với lao động nữ, theo nhiều đại biểu, là phù hợp, tạo điều kiện tăng cường và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em sơ sinh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến trường hợp phụ nữ có nhu cầu đi làm sớm mà các bác sỹ khẳng định đạt yêu cầu về sức khỏe thì nên tạo điều kiện để họ được làm việc.
Về vấn đề tuổi nghỉ hưu, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các thành viên Chính phủ. Theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, nên giữ như quy định hiện hành 60 tuổi với nam, 55 tuổi với nữ, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu tùy theo từng trường hợp. Phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài không quá 5 năm
Cụ thể hơn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình đề nghị không nên quy định tuổi nghỉ hưu với những người lao động thuộc khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp vì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này mà thuộc diện điều chỉnh của Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức. Một số đại biểu cũng thống nhất với ý kiến này, cho rằng tuổi nghỉ hưu của cán bộ công chức, viên chức nên điều chỉnh theo hai Luật trên.
Một vấn đề đặt ra là nếu giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nam 60, nữ 55 đối với cán bộ, công chức, viên chức thì lại lãng phí nguồn lực, trí tuệ bởi nhiều người ngoài 50 tuổi mới bảo vệ xong luận án tiến sỹ, chỉ làm việc thêm vài năm là đã nghỉ hưu. Song, nếu quy định tăng tuổi nghỉ hưu thì ảnh hưởng đến một loạt yếu tố khác như giải quyết việc làm, quy hoạch cán bộ…
Vậy quy định thế nào là hợp lý? Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đề xuất cần quy định mở rộng hơn nữa, một số nghề đặc thù cần kéo dài tuổi lao động, quy định rõ cái gì áp dụng với công chức viên chức, cái gì để các luật chuyên ngành quy định. Còn đại diện các Bộ Xây dựng, Y tế, Ủy ban Dân tộc thì cho rằng dù giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng cũng cần có quy định mềm hơn, áp thêm cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu 25 năm với nữ, 30 năm với nam, đủ thời gian đóng bảo hiểm là được đảm bảo chế độ lương hưu, không trừ phần trăm lương hưu để tránh thiệt thòi cho họ. Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài nhưng không quá 5 năm. Những người có trình độ thì do thủ trưởng đơn vị quyết định. Đại diện Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Ủy ban Dân tộc cũng khẳng định: Công chức viên chức cũng là người lao động, cần quy định làm sao để mọi đối tượng đều chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật này.
Người có trình độ cao có thể được kéo dài tuổi nghỉ hưu
Kết luận phần đóng góp ý kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu để sửa đổi những vấn đề hết sức bức thiết. Những gì đang thực hiện thí điểm thì không đưa vào Luật. Về thời giờ làm thêm, cần cân nhắc kỹ hơn vì nhiều người muốn làm thêm để có thêm thu nhập, cái quan trọng là quy định thế nào để đảm bảo điều kiện làm việc và tiền lương cho người lao động. Về nghỉ thai sản với lao động nữ, nên quy định sao cho “mềm” hơn, gắn với thực tiễn, khi người phụ nữ khỏe mạnh, có nhu cầu đi làm, điều kiện cho phép thì phải mở ra cho họ.
Thủ tướng cho rằng ai cũng là người lao động, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động, vì vậy cần coi đây là bộ luật gốc, cần đưa ra một nguyên tắc để các luật khác điều chỉnh cho dễ. Bộ luật này nên quy định nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi được quyền nghỉ hưu, còn người có đào tạo, trình độ cao, tự nguyện làm việc và được người sử dụng lao động chấp nhận thì được kéo dài tuổi nghỉ hưu, còn kéo dài tới bao nhiêu thì do luật quy định. Mỗi lĩnh vực sẽ có quy định kéo dài tối đa là bao nhiêu, do cấp có thẩm quyền quyết định.
(Theo TTXVN)
Tăng độ tuổi nghỉ hưu để giảm lãng phí nguồn lực
Thứ năm 15/09/2011 23:45
ANTĐ - Trong phiên họp chuyên đề hôm qua 15-9 về 9 dự án luật, dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã thu hút nhiều ý kiến đóng góp khác nhau của các thành viên Chính phủ.
Phụ nữ có nhiều cơ hội cống hiến hơn khi không bắt buộc về hưu ở tuổi 55
Những sửa đổi đáng chú ý
Đối với dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thời giờ làm thêm vẫn giữ như quy định hiện hành, tối đa 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm. Thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng. Về tuổi nghỉ hưu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng đối với người lao động thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động thì nên giữ như quy định hiện hành, 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ, tuy nhiên trong thời gian tới cần tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết: Dự án luật đã quy định tương đối toàn diện, tôn trọng và đề cao quyền tự chủ của người lao động, phù hợp với công ước quốc tế. Các thành viên Chính phủ cho rằng thời giờ làm thêm nên giữ như hiện hành, quy định thời gian làm thêm tối đa 200 giờ/năm, tuy nhiên, để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp mang tính đặc thù như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản thì Chính phủ cần có quy định riêng về thời gian làm thêm tối đa 300 giờ/năm. Việc đề xuất nâng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng với lao động nữ, theo nhiều đại biểu, là phù hợp, tạo điều kiện tăng cường và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em sơ sinh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến trường hợp phụ nữ có nhu cầu đi làm sớm mà các bác sỹ khẳng định đạt yêu cầu về sức khỏe thì nên tạo điều kiện để họ được làm việc.
Về vấn đề tuổi nghỉ hưu, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các thành viên Chính phủ. Theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, nên giữ như quy định hiện hành 60 tuổi với nam, 55 tuổi với nữ, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu tùy theo từng trường hợp. Phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài không quá 5 năm
Cụ thể hơn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình đề nghị không nên quy định tuổi nghỉ hưu với những người lao động thuộc khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp vì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này mà thuộc diện điều chỉnh của Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức. Một số đại biểu cũng thống nhất với ý kiến này, cho rằng tuổi nghỉ hưu của cán bộ công chức, viên chức nên điều chỉnh theo hai Luật trên.
Một vấn đề đặt ra là nếu giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nam 60, nữ 55 đối với cán bộ, công chức, viên chức thì lại lãng phí nguồn lực, trí tuệ bởi nhiều người ngoài 50 tuổi mới bảo vệ xong luận án tiến sỹ, chỉ làm việc thêm vài năm là đã nghỉ hưu. Song, nếu quy định tăng tuổi nghỉ hưu thì ảnh hưởng đến một loạt yếu tố khác như giải quyết việc làm, quy hoạch cán bộ…
Vậy quy định thế nào là hợp lý? Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đề xuất cần quy định mở rộng hơn nữa, một số nghề đặc thù cần kéo dài tuổi lao động, quy định rõ cái gì áp dụng với công chức viên chức, cái gì để các luật chuyên ngành quy định. Còn đại diện các Bộ Xây dựng, Y tế, Ủy ban Dân tộc thì cho rằng dù giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng cũng cần có quy định mềm hơn, áp thêm cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu 25 năm với nữ, 30 năm với nam, đủ thời gian đóng bảo hiểm là được đảm bảo chế độ lương hưu, không trừ phần trăm lương hưu để tránh thiệt thòi cho họ. Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài nhưng không quá 5 năm. Những người có trình độ thì do thủ trưởng đơn vị quyết định. Đại diện Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Ủy ban Dân tộc cũng khẳng định: Công chức viên chức cũng là người lao động, cần quy định làm sao để mọi đối tượng đều chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật này.
Người có trình độ cao có thể được kéo dài tuổi nghỉ hưu
Kết luận phần đóng góp ý kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu để sửa đổi những vấn đề hết sức bức thiết. Những gì đang thực hiện thí điểm thì không đưa vào Luật. Về thời giờ làm thêm, cần cân nhắc kỹ hơn vì nhiều người muốn làm thêm để có thêm thu nhập, cái quan trọng là quy định thế nào để đảm bảo điều kiện làm việc và tiền lương cho người lao động. Về nghỉ thai sản với lao động nữ, nên quy định sao cho “mềm” hơn, gắn với thực tiễn, khi người phụ nữ khỏe mạnh, có nhu cầu đi làm, điều kiện cho phép thì phải mở ra cho họ.
Thủ tướng cho rằng ai cũng là người lao động, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động, vì vậy cần coi đây là bộ luật gốc, cần đưa ra một nguyên tắc để các luật khác điều chỉnh cho dễ. Bộ luật này nên quy định nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi được quyền nghỉ hưu, còn người có đào tạo, trình độ cao, tự nguyện làm việc và được người sử dụng lao động chấp nhận thì được kéo dài tuổi nghỉ hưu, còn kéo dài tới bao nhiêu thì do luật quy định. Mỗi lĩnh vực sẽ có quy định kéo dài tối đa là bao nhiêu, do cấp có thẩm quyền quyết định.
(Theo TTXVN)
Giảng viên chạy sô: Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
Giáo dục: Học phí tăng, sinh viên lao đao
Giáo dục: ‘Giáo dục Việt Nam đang đào tạo ngược’
Giáo dục: 6 yêu cầu của giáo trình sử dụng chung trình độ TCCN
Giáo dục: Sách đạo đức gây xôn xao, hiệu trưởng trần tình
Giáo dục: Tăng cường kiểm tra vấn đề lạm thu
Giáo dục: Sách đạo đức gây xôn xao, hiệu trưởng trần tình
Giáo dục: 6 yêu cầu của giáo trình sử dụng chung trình độ TCCN
Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
Giảng viên chạy sô: Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
Xuất bản: 10:57, Thứ Năm, 29/09/2011, [GMT+7]
Đăng lên Facebook cho bà con cùng xem Đưa bài viết lên linkhay Đưa bài viết lên Google Bookmarks Đăng lên Twitter cho bà con cùng xem Chia sẻ In bài viết này
.
Tìm giảng viên (GV) có học vị cao theo yêu cầu là điều không đơn giản đối với nhiều trường ĐH-CĐ. Trong khi đó, không ít GV tìm mọi cách hợp thức hóa bằng cấp mà không quan tâm đến giá trị của văn bằng như thế nào.
Danh sách thạc sĩ, tiến sĩ khống
Phó hiệu trưởng một trường CĐ đang có chủ trương nâng cấp lên ĐH tại TP.HCM thừa nhận: “Vì áp lực phải có đủ số lượng tiến sĩ, thạc sĩ nhất định, nên có một số trường vẫn lập danh sách khống do trong quá trình nâng cấp chưa chuẩn bị kịp. Thậm chí không hiếm trường hợp không hề có tên tiến sĩ, thạc sĩ đó trong thực tế”.
Nếu chỉ nhìn vào danh sách lực lượng GV thì rất dễ bị đánh lừa. Trên thực tế, nhiều GV có học vị tiến sĩ dạy ở trường công lập này nhưng cho trường ngoài công lập khác mượn tên. Với phần lớn các trường ngoài công lập, lực lượng GV chủ chốt hầu hết đều thuê từ trường công.
Trường CĐ Kinh tế kỹ thuật Sài Gòn chính thức công khai thừa nhận điều này khi quảng bá: “Đội ngũ GV có trình độ chuyên môn, đặc biệt có sự tham gia của các GV là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã, đang giảng dạy và làm công tác quản lý ở các trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Bách khoa TP.HCM, ĐH Kinh tế TP.HCM...”.
Khoa kinh tế - quản trị kinh doanh của trường có khoảng 4 ngàn SV, nhưng trong danh sách công khai trên website chỉ có 10 GV cơ hữu, trong đó có người cùng một lúc biên chế ở nhiều trường khác nhau.
Giảng viên chạy sô: Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
tiensi_rom.jpg
Đỏ mắt tìm tiến sĩ
Theo quy định mới, các trường muốn mở ngành phải có ít nhất một GV là tiến sĩ, 3 GV thạc sĩ có trình độ đúng ngành đăng ký. Thạc sĩ Trần Ái Cầm - Phó hiệu trưởng trường ĐH Nguyễn Tất Thành cho biết: “Năm ngoái, trường tuyển bình quân mỗi khoa 10 GV cơ hữu nhưng có những ngành như tài chính ngân hàng rất khó tuyển GV có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đúng với chuyên ngành”.
Thạc sĩ Trần Mạnh Thành - Phó hiệu trưởng trường CĐ Bách Việt, chia sẻ: “Trường CĐ, ĐH nào cũng muốn thu hút những người có trình độ cao về làm việc, trong khi tiến sĩ thì có hạn”. Được biết, trường cũng đang tìm kiếm tiến sĩ có chuyên ngành về dược và điều dưỡng để xin mở ngành nhưng chưa có.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuấn - Hiệu trưởng trường ĐH Tài nguyên - Môi trường TP.HCM, lo lắng: “Khí tượng là ngành tuyển GV khó nhất, gần như không có ai đạt trình độ tiến sĩ của ngành này. Kể đến là trắc địa, hiện nay trường cũng chưa có ai là tiến sĩ ngành này”. Chưa kể những ngành không phải là thế mạnh của trường, đơn cử như ở khoa công nghệ thông tin, trên website trường đăng công khai 10 GV nhưng tất cả đều đang là nghiên cứu sinh hoặc cao học.
Bằng thật học giả
Để đáp ứng nhu cầu thực tế, nhiều GV đã phải tìm mọi cách để có được tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Nhiều bằng cấp trong số đó chỉ để hợp thức hóa chứ không có giá trị thật.
Phó hiệu trưởng một trường ĐH tại TP.HCM thông tin chương trình đào tạo tiến sĩ ở một vài cơ sở của Nga hiện nay rất đáng báo động. Nhiều GV ở Việt Nam đã theo các chương trình này để có được tấm bằng tiến sĩ. Người tham gia chương trình này không cần biết tiếng Nga, tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác. Họ chỉ sang Nga nửa tháng để nhận đề tài, toàn bộ thời gian nghiên cứu làm tại Việt Nam. Trong thời gian 3 năm đó, người hướng dẫn phía Nga sang Việt Nam mỗi năm một lần nhưng mọi giao tiếp đều thông qua phiên dịch. Cuối cùng các nghiên cứu sinh này chỉ cần sang Nga 15 ngày để bảo vệ luận văn.
Ở Nga cũng có một số website nổi tiếng mua bán bằng. Website doconline.ru rao bán đủ loại bằng cấp từ cử nhân đến tiến sĩ. Trong phần rao bán bằng tiến sĩ, website thông tin bán bằng từ bất kỳ thành phố nào của Nga với giá 33 ngàn rúp (khoảng 10 ngàn USD).
Trên dip-msk.ru, bằng tiến sĩ được rao bán 40 ngàn rúp (khoảng 12 ngàn USD) với nội dung: “Nếu bạn đã đạt được mục tiêu (chức vụ) nhưng chưa có bằng tiến sĩ, hãy đến với chúng tôi. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi cho rằng mua bằng rẻ thực tế hơn nhiều so với việc bản thân tự nỗ lực...”. (Bản dịch).
Theo PGS-TS Dương Anh Đức - Phó hiệu trưởng trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM), nhiều bằng tiến sĩ, thạc sĩ tại Mỹ cũng hết sức đáng ngại. Các trường “dỏm” tại Mỹ gửi thư mời GV VN mua bằng rất nhiều.
Ông Đức cho biết có trường, học viên qua Mỹ vài tháng, sau đó về nước chờ bằng tiến sĩ gửi qua; đa số chỉ cần đăng ký là sẽ có bằng. Trường “đàng hoàng” hơn thì chờ khoảng 4 năm mới gửi bằng qua, cho phù hợp thời hạn 3 - 5 năm nghiên cứu để hoàn tất bằng tiến sĩ như bình thường, nhưng cũng có trường chỉ vài tháng đã cấp ngay bằng tiến sĩ.
Theo Thanh Niên
Giáo dục: ‘Giáo dục Việt Nam đang đào tạo ngược’
Giáo dục: 6 yêu cầu của giáo trình sử dụng chung trình độ TCCN
Giáo dục: Sách đạo đức gây xôn xao, hiệu trưởng trần tình
Giáo dục: Tăng cường kiểm tra vấn đề lạm thu
Giáo dục: Sách đạo đức gây xôn xao, hiệu trưởng trần tình
Giáo dục: 6 yêu cầu của giáo trình sử dụng chung trình độ TCCN
Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
Giảng viên chạy sô: Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
Xuất bản: 10:57, Thứ Năm, 29/09/2011, [GMT+7]
Đăng lên Facebook cho bà con cùng xem Đưa bài viết lên linkhay Đưa bài viết lên Google Bookmarks Đăng lên Twitter cho bà con cùng xem Chia sẻ In bài viết này
.
Tìm giảng viên (GV) có học vị cao theo yêu cầu là điều không đơn giản đối với nhiều trường ĐH-CĐ. Trong khi đó, không ít GV tìm mọi cách hợp thức hóa bằng cấp mà không quan tâm đến giá trị của văn bằng như thế nào.
Danh sách thạc sĩ, tiến sĩ khống
Phó hiệu trưởng một trường CĐ đang có chủ trương nâng cấp lên ĐH tại TP.HCM thừa nhận: “Vì áp lực phải có đủ số lượng tiến sĩ, thạc sĩ nhất định, nên có một số trường vẫn lập danh sách khống do trong quá trình nâng cấp chưa chuẩn bị kịp. Thậm chí không hiếm trường hợp không hề có tên tiến sĩ, thạc sĩ đó trong thực tế”.
Nếu chỉ nhìn vào danh sách lực lượng GV thì rất dễ bị đánh lừa. Trên thực tế, nhiều GV có học vị tiến sĩ dạy ở trường công lập này nhưng cho trường ngoài công lập khác mượn tên. Với phần lớn các trường ngoài công lập, lực lượng GV chủ chốt hầu hết đều thuê từ trường công.
Trường CĐ Kinh tế kỹ thuật Sài Gòn chính thức công khai thừa nhận điều này khi quảng bá: “Đội ngũ GV có trình độ chuyên môn, đặc biệt có sự tham gia của các GV là giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã, đang giảng dạy và làm công tác quản lý ở các trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Bách khoa TP.HCM, ĐH Kinh tế TP.HCM...”.
Khoa kinh tế - quản trị kinh doanh của trường có khoảng 4 ngàn SV, nhưng trong danh sách công khai trên website chỉ có 10 GV cơ hữu, trong đó có người cùng một lúc biên chế ở nhiều trường khác nhau.
Giảng viên chạy sô: Từ tiến sĩ khống đến tiến sĩ dỏm
tiensi_rom.jpg
Đỏ mắt tìm tiến sĩ
Theo quy định mới, các trường muốn mở ngành phải có ít nhất một GV là tiến sĩ, 3 GV thạc sĩ có trình độ đúng ngành đăng ký. Thạc sĩ Trần Ái Cầm - Phó hiệu trưởng trường ĐH Nguyễn Tất Thành cho biết: “Năm ngoái, trường tuyển bình quân mỗi khoa 10 GV cơ hữu nhưng có những ngành như tài chính ngân hàng rất khó tuyển GV có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đúng với chuyên ngành”.
Thạc sĩ Trần Mạnh Thành - Phó hiệu trưởng trường CĐ Bách Việt, chia sẻ: “Trường CĐ, ĐH nào cũng muốn thu hút những người có trình độ cao về làm việc, trong khi tiến sĩ thì có hạn”. Được biết, trường cũng đang tìm kiếm tiến sĩ có chuyên ngành về dược và điều dưỡng để xin mở ngành nhưng chưa có.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuấn - Hiệu trưởng trường ĐH Tài nguyên - Môi trường TP.HCM, lo lắng: “Khí tượng là ngành tuyển GV khó nhất, gần như không có ai đạt trình độ tiến sĩ của ngành này. Kể đến là trắc địa, hiện nay trường cũng chưa có ai là tiến sĩ ngành này”. Chưa kể những ngành không phải là thế mạnh của trường, đơn cử như ở khoa công nghệ thông tin, trên website trường đăng công khai 10 GV nhưng tất cả đều đang là nghiên cứu sinh hoặc cao học.
Bằng thật học giả
Để đáp ứng nhu cầu thực tế, nhiều GV đã phải tìm mọi cách để có được tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Nhiều bằng cấp trong số đó chỉ để hợp thức hóa chứ không có giá trị thật.
Phó hiệu trưởng một trường ĐH tại TP.HCM thông tin chương trình đào tạo tiến sĩ ở một vài cơ sở của Nga hiện nay rất đáng báo động. Nhiều GV ở Việt Nam đã theo các chương trình này để có được tấm bằng tiến sĩ. Người tham gia chương trình này không cần biết tiếng Nga, tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác. Họ chỉ sang Nga nửa tháng để nhận đề tài, toàn bộ thời gian nghiên cứu làm tại Việt Nam. Trong thời gian 3 năm đó, người hướng dẫn phía Nga sang Việt Nam mỗi năm một lần nhưng mọi giao tiếp đều thông qua phiên dịch. Cuối cùng các nghiên cứu sinh này chỉ cần sang Nga 15 ngày để bảo vệ luận văn.
Ở Nga cũng có một số website nổi tiếng mua bán bằng. Website doconline.ru rao bán đủ loại bằng cấp từ cử nhân đến tiến sĩ. Trong phần rao bán bằng tiến sĩ, website thông tin bán bằng từ bất kỳ thành phố nào của Nga với giá 33 ngàn rúp (khoảng 10 ngàn USD).
Trên dip-msk.ru, bằng tiến sĩ được rao bán 40 ngàn rúp (khoảng 12 ngàn USD) với nội dung: “Nếu bạn đã đạt được mục tiêu (chức vụ) nhưng chưa có bằng tiến sĩ, hãy đến với chúng tôi. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi cho rằng mua bằng rẻ thực tế hơn nhiều so với việc bản thân tự nỗ lực...”. (Bản dịch).
Theo PGS-TS Dương Anh Đức - Phó hiệu trưởng trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM), nhiều bằng tiến sĩ, thạc sĩ tại Mỹ cũng hết sức đáng ngại. Các trường “dỏm” tại Mỹ gửi thư mời GV VN mua bằng rất nhiều.
Ông Đức cho biết có trường, học viên qua Mỹ vài tháng, sau đó về nước chờ bằng tiến sĩ gửi qua; đa số chỉ cần đăng ký là sẽ có bằng. Trường “đàng hoàng” hơn thì chờ khoảng 4 năm mới gửi bằng qua, cho phù hợp thời hạn 3 - 5 năm nghiên cứu để hoàn tất bằng tiến sĩ như bình thường, nhưng cũng có trường chỉ vài tháng đã cấp ngay bằng tiến sĩ.
Theo Thanh Niên
Tăng độ tuổi nghỉ hưu để giảm lãng phí nguồn lực
Tăng độ tuổi nghỉ hưu để giảm lãng phí nguồn lực
16-09-2011 | 10:32
Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hôm qua (15/9), Chính phủ họp phiên chuyên đề về 9 dự án luật cho ý kiến để chuẩn bị trình Quốc hội.
* Lao động VN bị “cướp” việc ngay tại “sân nhà”?
* Lao động phổ thông vẫn “đắt hàng”
Những sửa đổi đáng chú ý
Đối với dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thời giờ làm thêm vẫn giữ như quy định hiện hành, tối đa 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm. Thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng.
Về tuổi nghỉ hưu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng đối với người lao động thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động thì nên giữ như quy định hiện hành, 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ, tuy nhiên trong thời gian tới cần tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết: Dự án luật đã quy định tương đối toàn diện, tôn trọng và đề cao quyền tự chủ của người lao động, phù hợp với công ước quốc tế.
Các thành viên Chính phủ cho rằng thời giờ làm thêm nên giữ như hiện hành, quy định thời gian làm thêm tối đa 200 giờ/năm, tuy nhiên, để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp mang tính đặc thù như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản thì Chính phủ cần có quy định riêng về thời gian làm thêm tối đa 300 giờ/năm.
Một số ý kiến cho rằng, phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Việc đề xuất nâng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng với lao động nữ, theo nhiều đại biểu, là phù hợp, tạo điều kiện tăng cường và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em sơ sinh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến trường hợp phụ nữ có nhu cầu đi làm sớm mà các bác sỹ khẳng định đạt yêu cầu về sức khỏe thì nên tạo điều kiện để họ được làm việc.
Về vấn đề tuổi nghỉ hưu, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các thành viên Chính phủ. Theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, nên giữ như quy định hiện hành 60 tuổi với nam, 55 tuổi với nữ, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu tùy theo từng trường hợp. Phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài không quá 5 năm
Cụ thể hơn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình đề nghị không nên quy định tuổi nghỉ hưu với những người lao động thuộc khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp vì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này mà thuộc diện điều chỉnh của Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức. Một số đại biểu cũng thống nhất với ý kiến này, cho rằng tuổi nghỉ hưu của cán bộ công chức, viên chức nên điều chỉnh theo hai Luật trên.
Một vấn đề đặt ra là nếu giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nam 60, nữ 55 đối với cán bộ, công chức, viên chức thì lại lãng phí nguồn lực, trí tuệ bởi nhiều người ngoài 50 tuổi mới bảo vệ xong luận án tiến sỹ, chỉ làm việc thêm vài năm là đã nghỉ hưu. Song, nếu quy định tăng tuổi nghỉ hưu thì ảnh hưởng đến một loạt yếu tố khác như giải quyết việc làm, quy hoạch cán bộ…
Vậy quy định thế nào là hợp lý? Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đề xuất cần quy định mở rộng hơn nữa, một số nghề đặc thù cần kéo dài tuổi lao động, quy định rõ cái gì áp dụng với công chức viên chức, cái gì để các luật chuyên ngành quy định.
Còn đại diện các Bộ Xây dựng, Y tế, Ủy ban Dân tộc thì cho rằng dù giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng cũng cần có quy định mềm hơn, áp thêm cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu 25 năm với nữ, 30 năm với nam, đủ thời gian đóng bảo hiểm là được đảm bảo chế độ lương hưu, không trừ phần trăm lương hưu để tránh thiệt thòi cho họ. Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài nhưng không quá 5 năm.
Những người có trình độ thì do thủ trưởng đơn vị quyết định. Đại diện Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Ủy ban Dân tộc cũng khẳng định: Công chức viên chức cũng là người lao động, cần quy định làm sao để mọi đối tượng đều chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật này.
Người có trình độ cao có thể được kéo dài tuổi nghỉ hưu
Kết luận phần đóng góp ý kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu để sửa đổi những vấn đề hết sức bức thiết.
Những gì đang thực hiện thí điểm thì không đưa vào Luật. Về thời giờ làm thêm, cần cân nhắc kỹ hơn vì nhiều người muốn làm thêm để có thêm thu nhập, cái quan trọng là quy định thế nào để đảm bảo điều kiện làm việc và tiền lương cho người lao động. Về nghỉ thai sản với lao động nữ, nên quy định sao cho “mềm” hơn, gắn với thực tiễn, khi người phụ nữ khỏe mạnh, có nhu cầu đi làm, điều kiện cho phép thì phải mở ra cho họ.
Thủ tướng cho rằng ai cũng là người lao động, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động, vì vậy cần coi đây là bộ luật gốc, cần đưa ra một nguyên tắc để các luật khác điều chỉnh cho dễ. Bộ luật này nên quy định nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi được quyền nghỉ hưu, còn người có đào tạo, trình độ cao, tự nguyện làm việc và được người sử dụng lao động chấp nhận thì được kéo dài tuổi nghỉ hưu, còn kéo dài tới bao nhiêu thì do luật quy định. Mỗi lĩnh vực sẽ có quy định kéo dài tối đa là bao nhiêu, do cấp có thẩm quyền quyết định.
Theo TTXVN
16-09-2011 | 10:32
Dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hôm qua (15/9), Chính phủ họp phiên chuyên đề về 9 dự án luật cho ý kiến để chuẩn bị trình Quốc hội.
* Lao động VN bị “cướp” việc ngay tại “sân nhà”?
* Lao động phổ thông vẫn “đắt hàng”
Những sửa đổi đáng chú ý
Đối với dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), theo đề xuất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thời giờ làm thêm vẫn giữ như quy định hiện hành, tối đa 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm. Thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng.
Về tuổi nghỉ hưu, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho rằng đối với người lao động thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật Lao động thì nên giữ như quy định hiện hành, 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ, tuy nhiên trong thời gian tới cần tính đến việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Báo cáo tổng hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đức Đam cho biết: Dự án luật đã quy định tương đối toàn diện, tôn trọng và đề cao quyền tự chủ của người lao động, phù hợp với công ước quốc tế.
Các thành viên Chính phủ cho rằng thời giờ làm thêm nên giữ như hiện hành, quy định thời gian làm thêm tối đa 200 giờ/năm, tuy nhiên, để tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp mang tính đặc thù như dệt, may, da giày, chế biến thủy sản thì Chính phủ cần có quy định riêng về thời gian làm thêm tối đa 300 giờ/năm.
Một số ý kiến cho rằng, phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Việc đề xuất nâng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng với lao động nữ, theo nhiều đại biểu, là phù hợp, tạo điều kiện tăng cường và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em sơ sinh. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến trường hợp phụ nữ có nhu cầu đi làm sớm mà các bác sỹ khẳng định đạt yêu cầu về sức khỏe thì nên tạo điều kiện để họ được làm việc.
Về vấn đề tuổi nghỉ hưu, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau giữa các thành viên Chính phủ. Theo Bộ trưởng Vũ Đức Đam, nên giữ như quy định hiện hành 60 tuổi với nam, 55 tuổi với nữ, có thể tăng độ tuổi nghỉ hưu tùy theo từng trường hợp. Phụ nữ đến 55 tuổi có quyền nghỉ hưu chứ không buộc phải nghỉ hưu.
Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài không quá 5 năm
Cụ thể hơn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình đề nghị không nên quy định tuổi nghỉ hưu với những người lao động thuộc khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự nghiệp vì không thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật này mà thuộc diện điều chỉnh của Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức. Một số đại biểu cũng thống nhất với ý kiến này, cho rằng tuổi nghỉ hưu của cán bộ công chức, viên chức nên điều chỉnh theo hai Luật trên.
Một vấn đề đặt ra là nếu giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nam 60, nữ 55 đối với cán bộ, công chức, viên chức thì lại lãng phí nguồn lực, trí tuệ bởi nhiều người ngoài 50 tuổi mới bảo vệ xong luận án tiến sỹ, chỉ làm việc thêm vài năm là đã nghỉ hưu. Song, nếu quy định tăng tuổi nghỉ hưu thì ảnh hưởng đến một loạt yếu tố khác như giải quyết việc làm, quy hoạch cán bộ…
Vậy quy định thế nào là hợp lý? Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đề xuất cần quy định mở rộng hơn nữa, một số nghề đặc thù cần kéo dài tuổi lao động, quy định rõ cái gì áp dụng với công chức viên chức, cái gì để các luật chuyên ngành quy định.
Còn đại diện các Bộ Xây dựng, Y tế, Ủy ban Dân tộc thì cho rằng dù giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng cũng cần có quy định mềm hơn, áp thêm cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu 25 năm với nữ, 30 năm với nam, đủ thời gian đóng bảo hiểm là được đảm bảo chế độ lương hưu, không trừ phần trăm lương hưu để tránh thiệt thòi cho họ. Tuổi nghỉ hưu có thể kéo dài nhưng không quá 5 năm.
Những người có trình độ thì do thủ trưởng đơn vị quyết định. Đại diện Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Ủy ban Dân tộc cũng khẳng định: Công chức viên chức cũng là người lao động, cần quy định làm sao để mọi đối tượng đều chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật này.
Người có trình độ cao có thể được kéo dài tuổi nghỉ hưu
Kết luận phần đóng góp ý kiến dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp thu để sửa đổi những vấn đề hết sức bức thiết.
Những gì đang thực hiện thí điểm thì không đưa vào Luật. Về thời giờ làm thêm, cần cân nhắc kỹ hơn vì nhiều người muốn làm thêm để có thêm thu nhập, cái quan trọng là quy định thế nào để đảm bảo điều kiện làm việc và tiền lương cho người lao động. Về nghỉ thai sản với lao động nữ, nên quy định sao cho “mềm” hơn, gắn với thực tiễn, khi người phụ nữ khỏe mạnh, có nhu cầu đi làm, điều kiện cho phép thì phải mở ra cho họ.
Thủ tướng cho rằng ai cũng là người lao động, chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động, vì vậy cần coi đây là bộ luật gốc, cần đưa ra một nguyên tắc để các luật khác điều chỉnh cho dễ. Bộ luật này nên quy định nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi được quyền nghỉ hưu, còn người có đào tạo, trình độ cao, tự nguyện làm việc và được người sử dụng lao động chấp nhận thì được kéo dài tuổi nghỉ hưu, còn kéo dài tới bao nhiêu thì do luật quy định. Mỗi lĩnh vực sẽ có quy định kéo dài tối đa là bao nhiêu, do cấp có thẩm quyền quyết định.
Theo TTXVN
Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011
Dự kiến bảng lương mới của công chức
Dự kiến bảng lương mới của công chức
27/09/2011 00:37
(VTC News) – Bộ Nội vụ dự kiến sẽ đổi mới thang lương, bảng lương của công chức, để đối tượng này dần sống được bằng lương.
Dự kiến bảng lương mới của công chức
Thực hiện chế độ nâng bậc thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn hiện nay.
Với những hạn chế về chính sách tiền lương trước đây đã gây ra những hệ quả xấu với bộ máy Nhà nước, Bộ Nội vụ đã đề xuất nhiều phương án cải cách lương cho cán bộ, công chức.
Với công chức chuyên môn
- Phương án 1: Giữ nguyên tắc thiết kế bảng lương hiện hành (mỗi ngạch có một số bậc lương thâm niên) nhưng hoàn thiện theo hướng thu gọn các nhóm có cùng mức độ phức tạp trong công việc. Áp dụng với cán bộ, công chức trong các lĩnh vực hành chính (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội), toà án, kiểm sát, tư pháp.
Đồng thời đổi tên các loại công chức cho phù hợp với Luật Cán bộ, công chức:
+ Ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương đổi tên loại A3 thành A1; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm, có 6 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 như hiện nay).
+ Ngạch chuyên viên chính và tương đương: đổi tên loại A2 thành B; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 8 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 như hiện nay).
+ Ngạch chuyên viên và tương đương: Đổi tên loại A1 thành loại C1 có 9 bậc.
+ Ngạch cao đẳng: Đổi tên loại A0 thành loại C2, có 10 bậc.
+ Ngạch nhân viên: Đổi tên loại B và loại C thành loại D, trong đó có 2 nhóm, gồm: Nhóm D (loại B cũ); nhóm D2 (gộp nhóm C1, C2, C3 cũ).
Thực hiện chế độ nâng bậc thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn hiện nay.
Với phương án này, theo Bộ Nội vụ, sẽ không làm xáo trộn bảng lương hiện hành, giữ ổn định khi xếp lương cũ sang mới. Tuy nhiên, do chỉ có một số bậc lương theo thâm niên nên phải tiếp tục duy trì chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung, nên thực chất là bậc lương kéo dài nhưng không được xét hưởng trước thời hạn như chế độ nâng lương.
- Phương án 2: Thiết kế bảng lương theo nguyên tắc, mỗi ngạch công chức chỉ có một mức lương, bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung.
Với phương án này sẽ bỏ được chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung và đảm bảo quyền lợi công chức mà không bị quy định quá nhiều bậc lương, không bị hiểu nhầm là có “bậc treo”. Đồng thời thể hiện rõ quy định tiền lương theo mỗi vị trí việc làm.
Tuy nhiên, cần phải thay đổi quy định về chế độ, chính sách với cán bộ, công chức gắn với ngạch, bậc lương.
Với cán bộ, công chức lãnh đạo
- Phương án 1: Thiết kế bảng lương chức vụ đối với các chức danh từ Bộ trưởng trở lên và cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo. Các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo còn lại xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo như hiện nay.
Quy định các nhóm chức danh của cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau trong hệ thống chính trị ứng với một ngạch trong bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ.
Với phương án này, Bộ Nội vụ nhận định, sẽ không làm xáo trộn hệ thống thang, bảng lương hiện hành, thuận lợi cho điều động, luân chuyển cán bộ. Nhưng lại phải quy định thêm các ngạch công chức chuẩn ứng với từng nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị.
- Phương án 2: Thiết kế 1 bảng lương chức vụ áp dụng cho tất cả chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã. Mỗi chức danh thiết kế một chức vụ.
Nếu đảm nhiệm thêm chức danh từ nhiệm kỳ 2 thì cứ 5 năm được hưởng thêm 5% lương hiện hưởng. Khi thôi chức danh lãnh đạo để làm công chức chuyên môn thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức đã được xếp trước khi xếp lương chức vụ.
Với phương án này, tiền lương được gắn với vụ trí chức danh, tương quan tiền lương thể hiện rõ thứ bậc trong hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, nó lại làm xáo trộn tương quan tiền lương trong đội ngũ cán bộ, coong chức. Công chức chuyên môn, nghiệp vụ đang được hưởng mức lương ngạch, bậc thấp được bầu cử hoặc bổ nhiệm làm lãnh đạo có thể tăng đột biến, nên không khuyến khích công chức đi theo con đường chuyên môn, nghiệp vụ.
Bộ Nội vụ cho biết, sẽ ban hành mức lương tối thiểu, là mức lương thấp nhất mà công chức được hưởng, đảm bảo tiền ăn, tiền thuê nhà.
27/09/2011 00:37
(VTC News) – Bộ Nội vụ dự kiến sẽ đổi mới thang lương, bảng lương của công chức, để đối tượng này dần sống được bằng lương.
Dự kiến bảng lương mới của công chức
Thực hiện chế độ nâng bậc thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn hiện nay.
Với những hạn chế về chính sách tiền lương trước đây đã gây ra những hệ quả xấu với bộ máy Nhà nước, Bộ Nội vụ đã đề xuất nhiều phương án cải cách lương cho cán bộ, công chức.
Với công chức chuyên môn
- Phương án 1: Giữ nguyên tắc thiết kế bảng lương hiện hành (mỗi ngạch có một số bậc lương thâm niên) nhưng hoàn thiện theo hướng thu gọn các nhóm có cùng mức độ phức tạp trong công việc. Áp dụng với cán bộ, công chức trong các lĩnh vực hành chính (Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội), toà án, kiểm sát, tư pháp.
Đồng thời đổi tên các loại công chức cho phù hợp với Luật Cán bộ, công chức:
+ Ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương đổi tên loại A3 thành A1; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm, có 6 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 như hiện nay).
+ Ngạch chuyên viên chính và tương đương: đổi tên loại A2 thành B; gộp nhóm 1 và nhóm 2 thành 1 nhóm; có 8 bậc (bớt 1 bậc ở nhóm 1 như hiện nay).
+ Ngạch chuyên viên và tương đương: Đổi tên loại A1 thành loại C1 có 9 bậc.
+ Ngạch cao đẳng: Đổi tên loại A0 thành loại C2, có 10 bậc.
+ Ngạch nhân viên: Đổi tên loại B và loại C thành loại D, trong đó có 2 nhóm, gồm: Nhóm D (loại B cũ); nhóm D2 (gộp nhóm C1, C2, C3 cũ).
Thực hiện chế độ nâng bậc thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn hiện nay.
Với phương án này, theo Bộ Nội vụ, sẽ không làm xáo trộn bảng lương hiện hành, giữ ổn định khi xếp lương cũ sang mới. Tuy nhiên, do chỉ có một số bậc lương theo thâm niên nên phải tiếp tục duy trì chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung, nên thực chất là bậc lương kéo dài nhưng không được xét hưởng trước thời hạn như chế độ nâng lương.
- Phương án 2: Thiết kế bảng lương theo nguyên tắc, mỗi ngạch công chức chỉ có một mức lương, bãi bỏ chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung.
Với phương án này sẽ bỏ được chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung và đảm bảo quyền lợi công chức mà không bị quy định quá nhiều bậc lương, không bị hiểu nhầm là có “bậc treo”. Đồng thời thể hiện rõ quy định tiền lương theo mỗi vị trí việc làm.
Tuy nhiên, cần phải thay đổi quy định về chế độ, chính sách với cán bộ, công chức gắn với ngạch, bậc lương.
Với cán bộ, công chức lãnh đạo
- Phương án 1: Thiết kế bảng lương chức vụ đối với các chức danh từ Bộ trưởng trở lên và cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo. Các chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo còn lại xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo như hiện nay.
Quy định các nhóm chức danh của cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo tương đương nhau trong hệ thống chính trị ứng với một ngạch trong bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ.
Với phương án này, Bộ Nội vụ nhận định, sẽ không làm xáo trộn hệ thống thang, bảng lương hiện hành, thuận lợi cho điều động, luân chuyển cán bộ. Nhưng lại phải quy định thêm các ngạch công chức chuẩn ứng với từng nhóm chức danh cán bộ và công chức giữ chức danh lãnh đạo trong hệ thống chính trị.
- Phương án 2: Thiết kế 1 bảng lương chức vụ áp dụng cho tất cả chức danh lãnh đạo từ Trung ương đến cấp xã. Mỗi chức danh thiết kế một chức vụ.
Nếu đảm nhiệm thêm chức danh từ nhiệm kỳ 2 thì cứ 5 năm được hưởng thêm 5% lương hiện hưởng. Khi thôi chức danh lãnh đạo để làm công chức chuyên môn thì được bổ nhiệm vào ngạch công chức đã được xếp trước khi xếp lương chức vụ.
Với phương án này, tiền lương được gắn với vụ trí chức danh, tương quan tiền lương thể hiện rõ thứ bậc trong hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, nó lại làm xáo trộn tương quan tiền lương trong đội ngũ cán bộ, coong chức. Công chức chuyên môn, nghiệp vụ đang được hưởng mức lương ngạch, bậc thấp được bầu cử hoặc bổ nhiệm làm lãnh đạo có thể tăng đột biến, nên không khuyến khích công chức đi theo con đường chuyên môn, nghiệp vụ.
Bộ Nội vụ cho biết, sẽ ban hành mức lương tối thiểu, là mức lương thấp nhất mà công chức được hưởng, đảm bảo tiền ăn, tiền thuê nhà.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)